Các bạn đang xem bài : “Dân ca dân
nhạc VN – Dân ca Tày”
Đánh giá về Dân ca dân nhạc VN – Dân ca Tày
Xem nhanh
Hãy chung tay cùng nhau gìn giữ nét đẹp Văn Hóa trong sáng của dân tộc mình.
Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.
Chào các bạn,
Tiếp theo Dân ca Tà Ôi, mình giới thiệu đến các bạn Dân ca Tày hôm nay.
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, nhóm địa phương: Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi thấp phía Bắc Việt Nam. Người Tày trước đây hay được gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ một dân tộc khác, xem bài người Thổ). Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc Kinh, và có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang/Tráng ở Trung Hoa.
Tại Trung Hoa, người Nùng cùng với người Tày được xếp chung vào dân tộc Choang/Tráng.
Người Tráng hay người Choang (Chữ Tráng Chuẩn: Bouxcuengh, /pou˦˨ ɕueŋ˧/; Chữ Nôm Tráng: 佈壯 bính âm: Bùzhuàng; Chữ Hán giản thể: 壮族, phồn thể: 壯族, bính âm: Zhuàngzú; Chữ Thái: ผู้จ้วง, (Phu Chuang) là một nhóm dân tộc sống chủ yếu ở khu tự trị Quảng Tây phía nam Trung Hoa. ngoài ra một vài sống ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quý Châu và Hồ Nam. Họ được xếp vào một trong số 55 dân tộc thiểu số được Trung Hoa chính thức công nhận. Người Choang/Tráng Hiện tại là dân tộc thiểu số lớn nhất Trung Hoa.
Các ghi nhận lịch sử sớm nhất về người Tráng được khám phá cho đến nay là Bích họa Hoa Sơn (花山壁画), có từ thời chiến quốc (475–221 TCN).
Có rất ít các ghi chép tiếng Hán trước khi người Hán xâm nhập vào khu vực người Tráng, sự ám chỉ dễ dàng đến vùng đất phía nam sông Trường Giang là “Bách Việt” (百越). Những cuộc xâm lấn phương nam của Tần Thủy Hoàng được trình bày trong sử ký của Tư Mã Thiên. Cuộc tấn công lúc đầu vào vùng Lĩnh Nam đã tỏ ra thảm bại, với sự thất bại của tướng Đồ Thư trong trận đánh năm 218 TCN, nhưng công binh của ông, Sử Lộc đã hoàn thành việc xây dựng kênh Linh nối liền hai con sông Tương Giang và Ly Giang. Năm 214, Triệu Đà và Nhâm Ngao quay trở lại và bình định tộc người Tây Âu, khai phá Quảng Tây và phía nam với sự nhập cư của hàng trăm nghìn người Hán.
Một thập kỷ sau sự sụp đổ của Nhà Tần, Triệu Đà sử dụng vị trí của mình với tư cách là Quận úy Quận Nam Hải, lập nước Nam Việt và đặt thủ đô ở Phiên Ngung. Với giải pháp quy thuận và độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà Hán, vương quốc này đã mở rộng sự thực dân và Hán hóa bằng chính sách “Hòa hợp Bách Việt” (和集百越) cho đến năm 211 TCN nhưng không được sự ủng hộ của người Tráng.

Nhà Hán đã bớt quyền lực địa phương và lập các căn cứ quân sự ở Quế Lâm, Ngô Châu, và Ngọc Lâm. Cuộc nổi dậy ở Giao Chỉ do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị tướng Mã Viện đàn áp năm 42, Mã Viện được ghi nhận với tư cách giúp bình định những vùng này bằng việc cải thiện hệ thống tưới tiêu và thường xuyên điều luật Hán. Cuộc di cư của Người Dao từ vùng gần Trường Sa, Hồ Nam tới Quảng Tây ngày nay đã làm đảo lộn khu vực này.
Dưới thời Đường, người Tráng chuyển sang ủng hộ vương quốc Thái là Nam Chiếu ở Vân Nam, nước này đã đẩy lui hai cuộc tấn công của quân Đường năm 751 và 754. Quảng Tây khi ấy được chia thành hai vùng: một là vùng thuộc thế lực của người Tráng phía tây Nam Ninh và một là vùng thế lực của người Hán phía đông Nam Ninh.
Sau khi Nam Chiếu sụp đổ, Lưu Nghiễm thành lập nước Nam Hán. Nước này hầu như không thể kiểm soát được người Tráng, sau đó Nam Hán bị Tống đánh chiếm và sát nhập năm 971.
Bị quấy rối bởi cả Tống lẫn Đại Cồ Việt, lãnh đạo Tráng tộc là Nông (Nùng) Trí Cao (侬智高) đã chỉ huy cuộc nổi dậy năm 1052, vì điều đó mà ông vẫn được người Tráng tưởng nhớ. Họ Nông được ghi chép lại trong Tống Sử là giàu có về vàng, đông đúc về dân số “để tóc dài, cài áo sang phía trái. Chúng thích chiến đấu và xem nhẹ cái chết”. Quân Nông càn quét sang phía tây, chiếm Nam Ninh, bao vây Quảng Châu 57 ngày, và giết các chỉ huy của năm đội quân Trung Hoa được cử đi đánh họ. Cuối cùng họ bị đánh bại và thường xuyên thủ lĩnh bị giết. Các dòng họ không tham gia vào cuộc nổi dậy tham vọng này trở thành mục tiêu đồng hóa của Trung Hoa. một vài tàn quân nổi dậy tẩu tán về quê cũ nơi họ bắt đầu cuộc khởi nghĩa. một số khác lẩn sâu vào vùng đồi núi. Các bộ tộc mang họ Nông và tự nhận là con cháu của quân nổi dậy định cư quanh vùng biên giới giữa Việt Nam-Quảng Tây-Vân Nam. Một bộ phận khác vẫn mang họ Nông và ghi nhớ cuộc nổi dậy qua các câu chuyện truyền miệng sinh sống ở Sipsongpanna, Lanna (miền bắc Thái Lan), và Dehong.
Người Tráng ở Trung Hoa cũng chính là người Tày và người Nùng ở Việt Nam.

Nùng Trí Cao tức Nông Trí Cao, thủ lĩnh người Nùng ở châu Quảng Uyên xưa thời Lý nay là Cao Bằng, là người lập ra nước Nam Thiên Quốc sau đổi là Nam Việt rồi bị nhà Tống diệt. Lo sợ bị nhà Tống trả thù, thường xuyên người Nùng chạy sang Ðại Việt lánh nạn và định cư luôn tại miền thượng du các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Người Kinh gọi các nhóm này là người Thổ (người địa phương), trong khi họ tự nhận là người Thái. Với thời gian, các nhóm này đổi tên thành người Thày (đọc trại từ chữ Thái) rồi Tày để phân biệt với các nhóm người Thái đã có mặt từ trước và cũng để phân biệt với người Nùng, cùng hệ ngôn ngữ, còn sinh trú ở Quảng Tây và Quảng Ðông. Từ thế kỷ 13, các nhóm Nùng không chịu nổi chính sách phân biệt đối xử của nhà Nguyên (Mông Cổ), sau đó là nhà Minh (Hán) và nhà Thanh (Mãn Châu), đã từng đợt di cư vào Việt Nam, hội nhập với các nhóm Tày và Thái cùng hệ ngôn ngữ đã có mặt từ trước, họ vẫn giữ tên gọi riêng là Nùng.
Trong thực tế, các nhóm Tày, Nùng và Thái tại Việt Nam chỉ khác nhau chút ít về cách ăn mặc và cách xây dựng nhà cửa, về văn hóa thì hoàn toàn giống nhau. Cộng đồng người Tày, Nùng hay Thái được các triều đình Việt Nam dành cho qui chế tự trị để tranh thủ sự ủng hộ, chính sách này có tên “kềm cương phụ đạo”, nghĩa là tranh thủ cảm tình các vị thủ lãnh vì những người này có uy tín lớn trong cộng đồng của họ.

Nùng Trí Cao (chữ Hán: 儂智高; chữ Tráng: Nungz Cigaoh, 1025-1055) là thủ lĩnh địa phương ở Cao Bằng, lãnh đạo một phong trào tự trị của người Tày-Nùng ở vùng biên cương giữa Đại Việt và nhà Tống giữa thế kỷ 11, thời vua Lý Thái Tông và Tống Nhân Tông.
Nùng Trí Cao là người Tráng ở châu Quảng Nguyên (ngày nay là tỉnh Cao Bằng), và là con của thủ lĩnh địa phương Nùng Tồn Phúc và bà A Nùng.
Năm 1038, Nùng Tồn Phúc nổi dậy ở phía bắc nước Đại Việt, tự xưng là Chiêu Thành hoàng đế, đặt quốc hiệu là Trường Sinh quốc rồi đem quân đi đánh phá các nơi.
Tháng 2 năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Phúc. Phúc đốt sào huyệt rồi cùng vợ con chạy vào núi trốn. Vua cho quân đuổi theo, bắt được Phúc và con là Thông đem về Thăng Long, rồi sai quân san phẳng thành hào, chiêu dụ tộc loại còn sống sót, vỗ về yên ủi rồi rút quân.
Tháng 3 năm 1039, vua chém Phúc và Thông ngoài chợ. Vợ Phúc là A Nùng cùng Nùng Trí Cao tập hợp lực lượng để trả thủ.
Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng mẹ là A Nùng tập hợp lực lượng trở về lấy châu Thảng Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra một nước gọi là nước Đại Lịch (大曆). Lý Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được đem về Thăng Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau đó Nùng Trí Cao vào triều yết kiến, được vua Thái Tông gia phong cho tước Thái bảo.
Năm 1048, Trí Cao lại nổi dậy, chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng). Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao lại đầu hàng. mặc khác, theo giai thoại của người Tày – Thái địa phương, khi quân Lý tới nơi, ông nói với Quách Thịnh Dật đừng tiến quân, ông sẽ không gây ra hấn với nhà Lý nữa mà sẽ tiến sang phương Bắc.
Năm 1052, Nùng Trí Cao lại nổi dậy lần nữa, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế (仁惠皇帝), đặt quốc hiệu là Đại Nam. Để tăng thêm thanh thế, ông xin phép phụ thuộc vàoTrung Quốc, hoàng đế Nhân Tông nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh Trung Quốc. Được sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh người Thái – Tày ở Quảng Tây là Nùng Trí Trung, Nùng Kiến Hậu, thanh thế Trí Cao càng thêm lớn mạnh. Ông đánh lấy Ung châu, rồi sau đó chiếm cả thảy được 8 châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây, bao gồm: Hoành châu, Quý châu, Cung châu, Tầm châu, Đằng châu, Ngô châu, Khang châu, Đoan châu.

Nhà Tống lo sợ. Lý Thái Tông dâng biểu sang Trung Quốc xin mang quân phối hợp đánh Nùng Trí Cao. Khi quân Đại Cồ Việt sắp vào biên giới, tướng nhà Tống là Địch Thanh (狄青) can Tống Nhân Tông rằng: “Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không khống chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào?” Vua Tống nghe lời bèn sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí Cao và sai sứ nói với Lý Thái Tông rằng không cần quân Lý giúp. Dư Tĩnh đánh mãi không được, nhà Tống lấy làm lo.
Nhân khi Trí Cao dâng biểu xin phép lĩnh chức Tiết độ sứ Ung châu và Quý châu, vua nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh lại can nhớ đừng nên chấp thuận và xin phép đem quân đi đánh.
Đầu năm 1053, Địch Thanh ra hợp quân với Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân châu (Liễu châu tỉnh Quảng Tây) rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhéu với Trí Cao. Bấy giờ có quan Kiềm hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng giữ. Địch Thanh đem quân đến cửa Côn Lôn (gần phủ Nam Ninh) đánh Nùng Trí Cao. Lúc đang đánh nhéu, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu áp lại, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng dưới quyền là Hoàng Sư Mật 57 người tử trận[1]. Quân Tống đuổi theo giết hơn 2.200 quân của Trí Cao. Ông đốt thành bỏ chạy.
Tháng 10 năm 1053, Trí Cao sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu Đại Cồ Việt. Lý Thái Tông sai chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước Đại Lý. Quân Lý rút về.
Năm 1055, thời vua Lý Thánh Tông ở Đại Việt, đô giám nhà Tống là Tiêu Chú lại theo đường Đặc Ma (Vân Nam) đánh úp, bắt được mẹ Trí Cao là A Nùng, em Trí Cao là Trí Quang, con là Kế Phong. Quân Tống lại mộ những người cảm tử vào đất Đại Lý để lùng tìm Trí Cao.
Quân cảm tử chưa tới thì người nước Đại Lý ngại gây ra hấn với nhà Tống đã bắt Nùng Trí Cao chém chết, mang đầu đem nộp nhà Tống. Nhà Tống giết luôn gia quyến của Trí Cao.
Hiện tại còn di tích thành Nà Lữ, nơi ông đóng quân, ở gần thị xã Cao Bằng. Đền Khâu Sầm (Kỳ Sầm) đại vương thờ Nùng Trí Cao vẫn còn ở Cao Bằng, lễ hội đền Khâu Sầm vẫn được tổ chức hằng năm vào ngày 10 tháng giêng.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt Nam có dân số 1.626.392 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Tày cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lạng Sơn (259.532 người, chiếm 35,4% dân số toàn tỉnh và 31,5% tổng số người Tày tại Việt Nam)Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41,0% dân số toàn tỉnh và 25,2% tổng số người Tày tại Việt Nam)Tuyên Quang (185.464 người, chiếm 25,6% dân số toàn tỉnh và 22,5% tổng số người Tày tại Việt Nam)Hà Giang (168.719 người, chiếm 23,3% dân số toàn tỉnh và 20,5% tổng số người Tày tại Việt Nam)Bắc Kạn (155.510 người, chiếm 52,9% dân số toàn tỉnh và 18,9% tổng số người Tày tại Việt Nam)Yên Bái (135.314 người, chiếm 18,3% dân số toàn tỉnh và 16,4% tổng số người Tày tại Việt Nam)Thái Nguyên (123.197 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam)Lào Cai (94.243 người)Đắk Lắk (51.285 người)
Tộc Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai… và rau quả mùa nào thức đó. Người Tày có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với thường xuyên loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá thường nhật. Các nghề thủ công gia đình được chú ý.
Tộc Tày còn có nghề thủ công khá phong phú, họ đan các đồ sử dụng bằng cót, bồ, sọt, rổ… nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với thường xuyên loại hoa văn đẹp và độc đáo. nhiều vùng tự nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa nên họ tự túc được các loại vải để may váy áo, khăn… một số nghề phụ như làm gạch, nghề rèn hay nghề chưng cất dầu hồi để ăn và thắp đã có truyền thống từ lâu đời.

Tộc Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ. Trong tôn giáo của người Tày, ngày tảo mộ ngày lễ quan trọng nhất của người Tày thường là những ngày cuối tháng chạp âm lịch. Người Tày theo âm lịch.
Hàng năm họ có thường xuyên ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc và thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.
Nam nữ tộc Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay không. vì vậy trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin phép lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Tộc Tày khi có tang ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Tộc Tày có nhiều làn điệu dân ca như Lượn, Phong slư, Phuối pác, Phuối rọi, Vén eng… Lượn gồm: Lượn cọi, Lượn slương, Lượn then, Lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở thường xuyên vùng. Họ ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong kết hôn, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một vài địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.
Hát Then, Hát Lượn, Hát sli là các thể loại nổi tiếng được dùng vào các mục đính sinh hoạt khác nhéu. Bộ nhạc cụ đặc thù có Đàn Tính, Lúc Lắc. Đàn Tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hoá tinh thần của người Tày, như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày. Bao đời nay đàn tính có vai trò như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc.
Bài dân ca Ru Con của tộc Tày do NS Nguyễn Đình Nghĩa ký âm:
RU CON
Hỡi ru à hời! Ngủ yên giấc con nhé! Chờ khi tối mẹ về, mẹ vào ruộng hái dưa Bố vào ruộng lấy cá Vun nương rẫy trồng cà bắt cào cào ăn lúa Con mẹ vui đùa Quạ kêu đỉnh núi, Mẹ hát ru à hời.

Dưới đây mình có các bài:
– Hát Then – món ăn tinh thần của người Tày, Tuyên Quang – Dậm Thuông – điệu nhảy kì ảo của dân tộc Tày – Nhạc Cụ Trong Múa Then Của Dân Tộc Tày – Đàn Tính – nhạc cụ độc đáo của người Tày – Lễ hội Cầu Trăng của tộc người Tày, Hà Giang – Độc đáo Tết của dân tộc Tày, Hà Giang – Lễ khao tổ của người Tày, Lạng Sơn – Tết lúa mới ở bản Tày, Cao Bằng – Lễ trấn trạch của người Tày ở Bắc Kạn – Lễ mừng thọ – nét đẹp trong văn hóa của người Tày ở Cao Bằng – Đôi nét về Chữ Nôm của dân tộc Tày, Bắc Kạn – Bảo tồn chữ Nôm của dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn – Độc đáo kiến trúc cổ nhà sàn đá của người Tày, Cao Bằng – Trang phục dân tộc Tày – Chàng Cụt (Truyện cổ tích dân tộc Tày)
Cùng với 19 clips tổng thể văn hóa tộc Tày/Tráng/Choang (Zhuang) để các bạn thuận tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia & DTV & VOV)
Hát Then – món ăn tinh thần của người Tày, Tuyên Quang
(TQ-DTV)
Không biết từ bao giờ mà hát Then đã trở thành món ăn tinh thần, có tác động sâu sắc đến cuộc sống sinh hoạt văn hoá của người Tày ở Tuyên Quang.
Đặc sản văn hóa dân gian
Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang hầu như huyện nào, nơi nào cũng có hát Then, nhưng vùng hát Then đậm đặc, được duy trì và bảo tồn nguyên tổng giá trị chủ yếu ở các huyện Chiêm Hóa, Nà Hang và Lâm Bình.
Then là những khúc hát, điệu múa thuộc thể loại dân ca nghi lễ, phong tục từ lâu đời của dân tộc Tày. Then xuất phát từ chữ “Thiên” – tức là Trời. Bởi vậy, điệu hát Then vẫn được người Tày tỉnh Tuyên Quang coi là điệu hát thần tiên và thường được sử dụng trong các nghi lễ: Cầu mùa, cầu yên, cấp sắc…
Nguồn gốc của hát Then hiện chưa có sự thống nhất. Có người thì cho rằng Then xuất hiện từ thời nhà Mạc. Quân nhà Mạc thua trận, Vua suy nghĩ quá thường xuyên sinh ốm. Các quần thần biết Vua ốm do tư tưởng chứ không phải do bệnh tật nên cử đội nhạc hát cung đình tổ chức múa hát Then suốt 3 ngày 3 đêm, Vua thấy vui và khỏi bệnh. Từ đó ai ốm đều tìm những người biết hát múa Then đến biểu diễn… còn theo người già kể lại và sách chép ra của người đã quá cố, những người am hiểu về Then, như cố nghệ nhân Ma Thanh Cao, ở xã Tri Phú, cố nghệ nhân Hà Phan, ở xã Tân An (Chiêm Hóa), ông Nguyễn Mạnh Thẩm, ở xã Thanh Tương (Nà Hang), thì Then xuất hiện từ thời Phùng Hưng (thế kỷ thứ VIII)… Dẫu chưa có sự thông nhất về nguồn gốc, nhưng trong nhiều thế kỷ qua, hát Then là món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào dân tộc Tày tỉnh Tuyên Quang.
Ngôn ngữ – lời then, mộc mạc, giàu hình ảnh, gần gũi với cuộc sống đời thường, sử dụng ngôn từ tượng hình, tượng thanh phong phú, lối so sánh, ví von. Nội dung các khúc hát then đều toát lên tư tưởng nhân văn sâu sắc, chứa đựng tình yêu thiên nhiên (nhu cầu nhân an vật thịnh, cầu cho mưa thuận gió hòa, con người mạnh khỏe, mùa màng tươi tốt…), tình yêu đôi lứa, nghĩa vợ chồng, răn dạy đạo lý làm người, ca ngợi quê hương, đất nước… giai điệu mượt mà, sâu lắng, âm hưởng mềm mại, đầm ấm, tạo cảm giác gần gũi, thiêng liêng, sức truyền cảm mạnh.
Then có đặc trưng là giai điệu mượt mà, đằm thắm và mở đầu câu hát bao giờ cũng có từ “ới la”. Từ “ới la” có nghĩa là khát vọng giao đãi của con người với trời đất, thiên nhiên, vạn vật. Cấu trúc âm nhạc của Then Tuyên Quang là các quãng âm nhạc gần nhéu hơn tạo âm hưởng đầm ấm của con người xứ Tuyên.
có thể thấy trong Then Tày nói chung và Then Tày Tuyên Quang nói riêng, không chỉ có các thể thơ dân tộc, mà còn cả những biện pháp thi pháp, tu từ, ẩn dụ… của nghệ thuật thuật ngữ; tìm thấy những làn điệu của tầng dân ca, dân nhạc cổ xưa nhất; những điệu múa đã song hành với hát then không biết bao năm tháng. vì vậy mà Then là một kho tàng quý báu tàng trữ những tổng giá trị văn học nghệ thuật ngàn đời của ông cha.

Then kỳ yên và Then lễ hội
Nội dung hát Then Tuyên Quang được chia thành hai nhóm: Then kỳ yên và Then lễ hội. Theo nghiên cứu chưa đầy đủ của nhóm khảo sát Bảo tàng Tuyên Quang, Then kỳ yên và Then lễ hội gồm khoảng 60 bài Then cổ, cung, phủ được dùng hát trong các nghi lễ. Nhóm Then kỳ yên (đồng bào Tày thường gọi là làm then) được sử dụng trong các nghi lễ: Cúng cầu yên (yên lành), cầu chúc (chúc phúc, chúc năm mới), chữa bệnh… Then kỳ yên phải trải qua thường xuyên công đoạn gồm: Cung thổ công, cung phát pang (phát lễ cho họ nội, ngoại), cung thần linh, cung mồ mả, cung vua bếp (táo quân), cung tổ tiên (gia tiên), cung bắc cầu, cầu va (cái cẩu cầu va), cung mụ, cung giải hạn (me khoăn) – cầu mong tránh khỏi tai họa, phủ hội đồng, cung tam bảo, cung vua, cung khảm hải (vượt biển). Then kỳ yên bao giờ cũng tổ chức vào ban đêm yên tĩnh, khi mọi sự sống đã lắng đọng vào giấc ngủ, chỉ còn vang vọng tiếng hát của then, giúp mọi người nghe và cảm nhận từng lời hát một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Nhóm Then lễ hội là những khúc hát khích lệ tinh thần mọi người thêm phấn chấn, vui vẻ, xua tan phiền muộn, cực nhọc vất vả trong đời sống, lao động sản xuất để thỏa mãn ước vọng về một đời sống đầy đủ hơn, muôn vật sinh linh. Nhóm Then lễ hội thường được sử dụng trong các nghi lễ: Lễ cầu mùa, lễ vào nhà mới, lễ cấp sắc, lễ cốm. Then lễ hội gồm nhiều cung, phủ: Giải uế, khảm hải (vượt biển), tứ bách hoặc phủ thu quạt, pụt luông (chúa của thần nông), nhà phép, hội đồng, tam bảo, chợ tam quang, vua cha…
bên cạnh đó, có thể nói Then còn là tổng hợp các bộ môn văn học, nghệ thuật dân gian. Trong then có các thể loại truyện (thần thoại, cố tích, truyền thuyết, ngụ ngôn). thường xuyên tích truyện có nội dung giải thích nguồn gốc một sộ sự vật, hiện tượng về vũ trụ, thiên nhiên… cách giải thích dễ dàng, mộc mạc, nhưng khá ly kỳ, phản ánh thế giới quan của người Tày xưa.
Ngày xưa, hát Then chỉ dùng để cúng bái, giao tiếp với thần linh trong các cuộc lễ như: lễ khẩu mẩu (lễ cốm), lễ cấp sắc, lễ cầu mùa, cầu mưa… người ta có thể hát cả giờ đồng hồ, đôi khi là thâu đêm. Còn bây giờ ngoài những làn điệu Then cổ còn giữ lại thì các bài Then mới chủ yếu là bài hát ca ngợi quê hương, tình yêu đôi lứa, tình yêu lao động.
Hát Then Tuyên Quang và các tỉnh vùng Việt Bắc đang được chuẩn bị lập giấy tờ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là cơ hội lớn để di sản văn hóa dân tộc Tày Tuyên Quang được cả thế giới biết đến. Song cũng đặt ra đối với Tuyên Quang những thách thức không nhỏ trong việc bảo tồn, phát huy tổng giá trị của loại hình nghệ thuật di sản văn hóa dân gian độc đáo này.

Dậm Thuông – điệu nhảy kì ảo của dân tộc Tày
(Phương Thảo)
Thời gian gần đây, các màn nhảy tập thể, nhảy đường phố (flatmost) được những người trẻ (quốc tế và trong nước) du nhập vào Việt Nam đã ngày càng trở nên thịnh hành. Ít ai biết rằng, ở nơi thâm sơn cùng cốc, giữa sự trùng điệp của núi rừng Tây Bắc, một điệu nhảy tập thể như thế đã tồn tại hàng trăm năm này. Và, nó được gọi với một cái tên dân gian là tục Dậm Thuông, của đồng bào dân tộc Tày ở xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Điệu nhảy của thần linh?
Chuyện xưa kể lại rằng, xa xưa, từ thuở núi rừng còn hoang sơ, con người chưa biết làm ruộng, chưa biết nuôi lợn nuôi gà, các vị thần linh thường bay từ trên trời xuống cùng dân bản cuốc đất làm ruộng, dạy con người các nghi lễ ăn, ở. Về sau thần linh bay về trời, không xuống nữa, từ đó cứ vào các dịp quan trọng như ma chay, cưới hỏi hoặc các dịp lễ hội, dân bản lại tổ chức nhảy gọi là Dậm Thuông để mời các vị thần linh xuống cùng nhảy múa. Người dân nhảy múa như thể là hình thức mời thần linh chứng giám cho nghi lễ, vừa là để cảm tạ các vị thần linh và cầu xin sự no ấm, may mắn cho một năm mới an lành, một mùa canh tác bội thu.
Dậm Thuông, trước hết là một nghi lễ, bởi nó thường được tổ chức trước điện thờ thần linh hoặc bàn thờ tổ tiên. Sau khi “bà mo” (thầy cúng) kết thúc phần cúng, ba đến bảy người được “bà mo” chọn sẽ tham gia Dậm Thuông cùng với “bà mo”. Dậm Thuông có sáu điệu gồm Dậm Khăn, Dậm Chèo Thuyền, Dậm Tính, Dậm Quạt, Quét Sân Rồng, Dậm Téo Kéo. Mỗi một điệu dậm là một bài hát khác nhau với những loại nhạc cụ khác nhau như đàn tính; một loại nhạc cụ làm từ nhiều quả lục lạc nhỏ kết lại cộng với âm thanh của các loại bát, đĩa, xoong, nồi.
Các dụng cụ đi kèm mỗi điệu nhảy cũng không giống nhau và quy định khá nghiêm ngặt, ngoài quạt, khăn, khi thực hiện điệu nhảy, người ta còn sử dụng cả kiếm gỗ, chân hương, đèn. Tùy từng hoàn cảnh khác nhéu mà sử dụng một phần hoặc toàn bộ sáu điệu nhảy trong “bữa tiệc” nhảy của sự kiện đó. Điều làm cho Dậm Thuông trở thành thứ nghi lễ mang đầy màu sắc kì ảo của tâm linh là nó có khả năng khiến cho mọi người xung quanh cùng tham gia, cùng nhảy múa với trạng thái háo hức giống như trong trạng thái lên đồng, như một thứ men say chứa đựng sự hoang dã, bí ẩn của núi rừng. Theo nhịp của tiếng hát then, tiếng đàn trong ánh sáng của đèn nến, khói hương, từng điệu nhảy cứ thế diễn ra tuần tự, khi dẻo dai khoan thai, khi mạnh mẽ, dồn dập và đỉnh điểm là ở điệu dậm cuối cùng Dậm Téo Kéo, những người tham gia sẽ nhảy như bị nhập đồng – đó là lúc thần linh và con người hòa làm một, mọi mong muốn, ước nguyện của con người đã được thần linh chứng dám.
Chứng thực cho điều kì lạ này, nghệ nhân hát then, “bà mo” Hà Thị Luật, 83 tuổi ở xã Thượng Bằng La cho biết: “Những người tham gia Dậm Thuông sẽ cứ thế nhảy mãi cho đến khi trong người có người có cảm giác lâng lâng, nhảy không còn biết mệt, không còn ngượng ngịu. Nhảy say tới mức, âm nhạc và động tác hòa làm một. “Bà mo” Luật còn cho biết thêm rằng, có một số dân tộc cũng có kiểu nhảy như bị ai đó điều khiển như điệu nhảy lửa của người Pà Thẻn. Tìm hiểu thêm, được biết nhảy lửa là nghi lễ nhảy truyền thống của dân tộc Pà Thẻn vào đầu năm mới. Tham gia nhảy là các chàng trai trẻ, trong tiếng khấn, tiếng gõ của thầy cúng, các chàng trai từng người một sẽ bỗng dưng đứng bật dậy cứ thế chân trần nhảy qua, nhảy lại trên một đống lửa to đang cháy bừng bừng, hơi than đỏ rực, thậm chí họ còn bới tro tàn lửa bay lên người để được may mắn mà không hề hấn gì. Giống như nhảy lửa, Dậm Thuông có lẽ cũng là một nghi lễ đầy bí ẩn, chứa đựng trong đó những hoang dã, kì diệu của núi rừng.
Vũ điệu của cộng đồng
tuy nhiên, theo bà Luật, Dậm Thuông không những là một nghi lễ đơn thuần. Không giống nhảy lửa, người nhảy nhảy một cách hoàn toàn tự nhiên, tự phát giống như chơi một trò chơi trong trạng thái không tỉnh táo. Dậm Thuông phải qua quá trình tập luyện với thường xuyên động tác bài bản và khi đạt đến đỉnh điểm, dù người nhảy không còn ở thực tại nhưng động tác càng uyển chuyển, khéo léo, phối hợp với nhau càng nhịp nhàng, ăn khớp hơn. Từ một nghi lễ hoang sơ, Dậm Thuông trở thành một hoạt động mang giá trị cao về nghệ thuật và văn hóa cộng đồng. Thông thường, Dậm Thuông được tổ chức trên nhà sàn với từ ba đến bảy người. Nhà nào tổ chức kết hôn, có Dậm Thưông là dân bản đến đứng chật cả nhà, tràn ra cả ngoài đường. Nhưng có lẽ vui nhất là khi dân bản mở hội Caau Loog Toong (lễ hội xuống đồng) vào tháng 1 Âm lịch, sau dịp Tết Nguyên đán. Dân bản sẽ tổ chức Dậm Thuông thường xuyên người. Màn đại Dậm này có từ 300 đến 500 người tham gia và không giới hạn người cho đến cuối buổi dậm. Người già kể rằng trước đây, khi tổ chức nhảy thường xuyên người, cả bản sẽ kéo nhau đi xem không thiếu một ai từ người già đến trẻ nhỏ và cả người từ vùng khác cũng rủ nhéu đến.
Ban đầu, đội nhảy hàng trăm người trong trang phục truyền thống của người Tày sẽ xếp thành một đội ở chính giữa, sau khi thầy cúng kết thúc phần lễ khấn, tiếng nhạc, tiếng hát nổi lên, cả trăm người này sẽ cùng nhéu Dậm Thuông. Trong Dậm, nhiều người thường sử dụng điệu Dậm Quạt, Dậm Khăn và Dậm Téo Kéo. Lúc đầu là dậm theo từng nhóm nhỏ, các nhóm nhỏ làm thành những vòng tròn nhỏ rồi các vòng tròn nhỏ hợp thành vòng tròn lớn và đến điệu Dậm Téo Kéo thì vòng tròn cứ mở rộng mãi ra cho đến lúc tất cả mọi người lúc đầu chỉ đứng xem cũng đều đặn say theo từng bước nhảy. Việc này biểu hiện cho sự hòa hợp, chung sống lẫn nhéu trong cộng đồng người Tày ở Tây Bắc. Vẫn những động tác cần sự chính xác, khéo léo, phối hợp giữa tay chân nhịp nhàng, một điều mà không phải ai mới bắt đầu cũng làm được. Nhưng không hiểu bằng cách nào đó, Dậm Thuông mặc dù có rất nhiều động tác phức tạp, nhịp điệu lúc nhénh lúc chậm nhưng nó vẫn thu hút được tất cả mọi người cùng tham gia, cùng nhảy cho đến khi tất cả cứ thế quay tròn trở thành một khối thống nhất. Lúc này, người nhảy sẽ trở nên say như bị thôi miên, cảm thấy tiếng đàn tính tẩu, tiếng then réo rắt như từ cõi nào đó vọng về.
Bà Luật giải thích: Với thường xuyên điệu nhảy phức tạp như thế, thường xuyên dân tộc chỉ nhảy một người hoặc nhiều lắm là năm đến mười người như như múa khèn của người Mông, múa sạp của người Mường. Để trở thành một điệu nhảy cộng đồng, nhiều người có khả năng nhảy được thì xòe Thái từ đầu đến cuối, chỉ có duy nhất một điệu nhún, mọi người chỉ cần nắm tay nối vào vòng là có khả năng tham gia. Dậm Thuông có khả năng nhảy tập thể bởi nó là bài nhảy có kết cấu chặt chẽ, được kể tuần tự như một câu chuyện. Các động tác được cách điệu hóa cao, đẹp mắt nhưng vẫn nhận ra là các động tác lao động, làm việc trong cuộc sống hàng ngày. Với tiếng then có nhịp nên mặc dù thường xuyên động tác phức tạp, điệu nhảy này vẫn nhanh chóng được tất cả người dân nhận ra quy luật, đặc biệt khi dồn lên đỉnh điểm ở Dậm Téo Kéo, người tham gia nhảy cảm nhận được sự say mê, hào hứng nên điệu nhảy rất hòa nhịp, rất đều đặn nhau như thể họ đã từng tập luyện lâu ngày trước đó.
Được biết, qua hai cuộc chiến tranh ác liệt và những năm đời sống khó khăn, tục Dậm Thuông và lễ hội Caau Loog Tong của người dân tộc Tày đã bị mai một. Thời gian gần đây, do xã hội phát triển, cuộc sống người dân được cải thiện nên ý thức về cội nguồn văn hóa dân tộc đã chuyển biến rõ rệt. Người ta đã nhận thấy, đó là nét đẹp văn hóa cần gìn giữ và phát triển. Năm 2008 chính quyền và nhân dân xã Thượng Bằng La đã khôi phục lại lễ hội Caau Loog Toog và điệu nhảy Dậm Thuông. Từ đó đến nay cứ hai năm lễ hội được tổ chức một lần, thu hút đông đảo bà con nhiều thế hệ, thường xuyên thành phần dân tộc tham gia. Sức lôi cuốn kỳ ảo đã tạo nên men say.
(Qua tìm hiểu của phóng viên, hiện không nhiều người còn nhớ chính xác từng bước nhảy, vì vậy sự sùng bái cao về tín ngưỡng thờ cúng cũng đã Giảm. thường xuyên người, nhất là thế hệ trẻ không hề biết rằng dân tộc mình đã từng tồn tại một điệu nhảy mê hồn như Dậm Thuông. Vì vậy, Dậm Thuông trong những năm được khôi phục lại còn thường xuyên điều kiện về trang phục, động tác và người tham gia không được đông như trước. Giới trẻ biết ít về điệu nhảy này làm cho người lớn tuổi trong bản, trong xã lo ngại về sự mai một của điệu nhảy mê hồn này. Nhưng qua ba mùa lễ hội được tổ chức, vòng Dậm Thuông đã rộng thêm ra, đều đặn hơn, đẹp hơn như minh chứng cho sức sống trường tồn của bản sắc và tài hoa của văn hóa dân tộc, minh chứng cho sức lôi cuốn kì ảo đã làm nên men say của điệu Dậm Thuông từ bao đời nay.)

Nhạc Cụ Trong Múa Then Của Dân Tộc Tày
(Tạ Thâm)
Nhạc cụ đệm cho múa dân gian cũng như múa tín ngưỡng Then của dân tộc Tày không nhiều như một vài dân tộc khác, nhưng nó có dấu ấn văn hóa rõ rệt. Từ xưa, người Tày, Thái vốn có mối quan hệ ngôn ngữ văn hóa nên đã cùng chung trong nhóm ngữ hệ. Đó là ngữ hệ Tày – Thái, mà ngôn ngữ là một biểu hiện một tiêu chí văn hóa. Có lẽ do mối quan hệ, giao lưu văn hóa mà người Tày, Thái đều đặn có chung loại nhạc cụ là đàn Tính (Thái), đàn Then (Tày) và quả nhạc. Cấu tạo, chất liệu, tính năng nhạc cụ đều chung một quy cách và các trường hơp sử dụng tương tự như nhau. Đàn Tính, đàn Then được dùng trong các hình thái sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đặc biệt trong nghi lễ tín ngưỡng Then (dân tộc Tày), tín ngưỡng Kim pang Then (dân tộc Thái), thì đàn Then (đàn Tính) là nhạc cụ chủ yếu cho đệm hát, múa và cả quy trình diễn xướng nghi lễ. mặt khác còn có nhạc cụ khác là quả nhạc, thanh la, trống.
Để hiểu rõ hơn, Tạ Thâm xin giới thiệu với các bạn các nhạc cụ trong múa Then của dân tộc Tày. Bài viết có sự tham khảo tư liệu của PGS.TS. Lê Ngọc Canh.
Đàn Then
Đàn Then (đàn Tính) là nhạc cụ quan trọng đệm cho hát, múa, diễn và mọi hoạt động của tín ngưỡng Then. Chính vì đàn dùng chủ yếu trong tín ngưỡng Then nên có tên gọi là đàn Then.
Người xưa kể rằng:
Thuở xưa có một chàng trai người dân tộc Tày nhà rất nghèo khổ, tên là Xiên Căn (nghĩa là nghìn cân). cuộc sống lao động vất vả, tăm tối để kiếm sống. Xiên Căn có tầm vóc cao lớn, ăn bao nhiêu cũng không đủ no. Hàng xóm, làng bản cũng là những người nghèo khổ với nhéu nên giúp đỡ chỉ có hạn.
Chàng Xiên Căn thấy khổ cực quá, ngày đêm vác đá bắc thang lên hỏi ông trời, cầu xin phép. Ông trời thương hại Xiên Căn ông ban cho chàng một bầu vú trinh nữ để làm bầu đàn, một cánh tay mượt mà, trắng nõn của tiên nữ để làm cần đàn và ban cho chàng những sợi tóc để làm dây đàn. Mỗi dây đàn mang một ý nghĩa.
Dây trầm vang lên sẽ có cây lúa, cây ngô mọc lên Dây trung vang lên sẽ có sức mạnh, có sức sống Dây bổng vang lên sẽ có tình yêu và hạnh phúc.
Từ đó chàng Xiên Căn có cây đàn kỳ diệu làm mê say, quyến rũ muôn loài, muôn vật. Tiếng đàn của Xiên Căn còn làm rung động cả mặt trời, mặt trăng.
Tiếng đàn của Xiên Căn thánh thót trầm bổng làm cho:
Hoa thêm sắc thắm Cỏ cây xanh tươi Gió bay nhẹ lướt Mây lượn theo gió Suối reo thì thầm Lúa vàng đâm bông Ngô vui bắp lớn
Tiếng đàn của Xiên Căn cứ ngân vang mãi theo con suối, dòng sông, vách núi, bìa rừng! Nó không bao giờ ngắt, cứ thánh thót, ấm áp với thời gian, với cuộc sống của người Tày.
Quả nhạc
Quả nhạc được cấu tạo từ chất liệu đồng, trong có hạt để khi lắc rung sẽ tạo ra âm thanh. Quả nhạc chủ yếu tạo ra tiết tấu, nhịp điệu và thực hiện chức năng giữ nhịp, màu sắc.
Thanh la làm bằng chất liệu đồng, đường kính của thanh la khoảng 20-25cm, đánh bằng dùi gỗ. Nó góp phần tạo ra không khí sôi động.
Trống loại nhạc cụ gõ có vai trò quan trọng trong việc thể hiện những điệu múa vui, sôi động hoặc lao động, chiến đấu.
Chiêng (Cồng) là loại nhạc cụ gõ bằng đồng, thường sử dụng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng như hội xuân, hội Lồng tồng. Trong Then ít sử dụng chiêng (cồng).

Đàn Tính – nhạc cụ độc đáo của người Tày
(Hoàng Nam)
Cây đàn Tính (còn gọi là Tính tẩu) là loại nhạc cụ tiêu biểu của đồng bào dân tộc Tày.
Đàn Tính là loại đàn dây, gồm ba bộ phận chính: bầu đàn, cần đàn và dây đàn. Để có được cây đàn Tính hay, quan trọng nhất phải tìm được bầu đàn tốt. Bầu đàn làm bằng nửa quả bầu khô.
Cần chọn quả bầu già, tròn đều, vỏ không bị nám hoặc lồi lõm thì đàn mới có âm vang chuẩn. Cần đàn được làm bằng gỗ, thẳng và nhẹ, một đầu xuyên qua bầu đàn, đầu còn lại uốn cong hình lưỡi liềm.




Cần đàn càng dài thì độ vang càng lớn. Đàn Tính thường có 3 dây được làm bằng tơ se, tượng trưng cho cha, mẹ và đất nước. Ngày nay, hầu hết các hoạt động văn hóa của người Tày như: cưới xin phép, mừng thọ, liên hoan văn nghệ và đặc biệt là hát Then… đều có sự xuất hiện của cây đàn Tính.

Lễ hội Cầu Trăng của tộc người Tày, Hà Giang
(TH-Cinet-DTV)
Lễ hội Cầu Trăng là ngày vui nhất của bà con dân tộc Tày (Hà Giang). Bà con dân bản từ già, trẻ, gái, trai đều đặn đến tham gia đông đủ, họ dâng các sản vật, khấn mời mẹ Trăng xuống hạ giới nghe những tâm tư, tình cảm của người dân sau một năm siêng năng làm lụng…
Với khoảng trên 160.000 người, chiếm 25% dân số trong tỉnh Hà Giang, người Tày sinh sống rải rác ở các huyện, thành phố trong tỉnh nhưng tập trung đông nhất là ở các huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê. Ngoài các câu truyện kể dân gian truyền miệng, các làn điệu lướn, đối đáp, giao duyên dân tộc Tày còn có nhiều lễ hội độc đáo. Trong đó phải kể đến Lễ hội Cầu trăng.
Lễ hội cầu Trăng được tổ chức đúng ngày Rằm tháng Tám, lễ hội gồm hai phần là phần lễ và phần hội.
Mở đầu phần hội là các màn múa vòng quanh bàn lễ đặt ngoài Trời. Tiếp đến, dân bản thi nấu các món ẩm thực truyền thống (cơm lam, xôi ngũ sắc, mắm thịt lợn, mắm cá chép, trám muối, măng muối…); chơi các trò chơi dân gian; quây quần ngồi uống rượu, thưởng thức các món ẩm thực vừa chế biến. Hòa quyện vào men rượu thơm nồng, ngây ngất, họ cùng nhéu múa, hát với giai điệu mượt mà, đằm thắm, chan chứa tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi…
Đêm hôm sau, đúng vào ngày rằm tháng tám, khi mẹ trăng lên khỏi đỉnh núi và bắt đầu tỏa sáng xuống bản làng, tất cả bà con tập trung ở sân. Lúc này, thầy cúng tiến hành cúng thổ công và các thần linh, các nghệ nhân cúng tế múa vòng quanh dàn cúng khi khai hội đón trăng.
Đặc biệt trong bài ca cúng tế thần mặt trăng có bài “Mổ Lùng Hai” hay còn gọi là (Nàng Hai) với nội dung là mời thần mặt trăng xuống trần gian để bà con được trình bày về những việc đã làm trong năm, những diễn biến của thiên nhiên đối với cuộc sống lao động sản xuất của họ, cùng lúc ấy bày tỏ tâm tư nguyện vọng với “Nàng Hai” cầu xin cho mưa thuận, gió hòa; xua đuổi thú giữ phá phách, nhốt chặt những con sâu, con bọ có hại, xin tiếp những hạt giống tốt để mùa màng trong năm tới tiếp tục được bội thu; người người xin tránh được những tai ương bệnh tật…
Đêm hội cầu trăng kết thúc khi mẹ trăng lên đứng giữa đỉnh đầu, cả bản lưu luyến làm lễ tiễn mẹ trăng về trời, sau đó họ lại tiếp tục ngân nga trong câu hát then, hát cọi có sức lôi cuốn con người đến kỳ lạ. Kết thúc buổi lễ, già làng sẽ phát các hạt giống cho con cháu, cầu cho tất cả bà con một năm mới gieo trồng gặp thuận lợi, mùa màng bội thu, dân bản no ấm. Thông qua việc tổ chức lễ hội cầu trăng, bà con dân tộc Tày còn truyền dạy cho con cháu của mình lòng tự hào, gìn giữ những tổng giá trị văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc của dân tộc.
Lễ hội Cầu Trăng là phần nghi lễ rất độc đáo, có tính hướng thiện và tính giáo dục rất cao trong cộng đồng người Tày. Khi đến với lễ hội cầu trăng, không chỉ được nghe hát những làn điệu dân ca, các trò chơi dân gian, mỗi du khách còn được thưởng thức các món ẩm thực truyền thống của bà con dân tộc Tày như cơm lam, các món rau rừng, mắm thịt lợn, mắm cá chép ruộng, trám muối, xôi ngũ sắc, măng chua, trám đen chấm với muối vừng.

Độc đáo Tết của dân tộc Tày, Hà Giang
(TH-Cinet-DTV)
Bản sắc văn hóa phong tục tập quán ngày Tết của người Tày ở Hà Giang mang đậm nét nhân văn sâu sắc về đạo lý uống nước nhớ nguồn, tình thân yêu thương đoàn kết giúp đỡ lẫn nhéu.
Với khoảng trên 160.000 người chiếm 25% dân số tỉnh Hà Giang, người Tày sinh sống rải rác ở các huyện thành phố nhưng tập chung đông nhất ở các huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị xuyên, Bắc Mê. Họ quan niệm một năm làm lụng vất vả ngày Tết là ngày mọi người đến chơi thăm hỏi nhau cùng nhau chung vui. do đó, vào ngày này, gia đình nào cũng có một con lợn để ăn Tết.
Ngày 30 Tết bếp được gia đình quét gọn, sạch sẽ. Ngày đó mới được nhấc kiềng ra khỏi vị trí để xúc hết tro bụi cũ ra khỏi bếp. Gác bếp được quét sạch bò hóng, đồng thời treo thịt lợn ướp muối, phải có thủ lợn treo ở giữa gác bếp. Trong ngày đó bếp phải có 1- 2 đoạn củi gộc, loại gỗ cứng, tươi càng tốt. Gỗ ước chừng cháy đến Rằm tháng Giêng, đấu gỗ vào nhau và nhóm lửa ngay để lấy may năm mới sắp đến, đuổi cái xấu đi. Người ta cho rằng trong 15 ngày đầu Xuân, nếu như lửa trong bếp mà tắt thì nhiều cái xấu đến với gia đình. Trong tháng Tết cổ truyền, đặc biệt là từ mùng một đến Rằm tháng Giêng không được nói tục, không được làm những việc xấu, nói xấu người khác, Nếu ai không kiêng được thì năm đó hay ốm đau, mùa màng thất bát, chăn nuôi thiệt hại.
Bàn thờ ngày Tết của người Tày được trang trí hai bên là hai cây mía buộc lá kết vào nhéu bằng từng khoanh giấy đỏ, thêm một cành đào, một đĩa quả, rượu, gần đến giao thừa bánh chín mang bánh lên thắp hương tổ tiên.
Đêm giao thừa mọi người đều đặn thức để đón thời khắc giao thừa chờ gà gáy. Người Tày quan niệm rằng ai thức trước gà sẽ thông minh sáng dạ nhénh nhẹn, biết tính toán làm ăn no đủ. do đó ai cũng muốn đón những điều tốt lành ngay từ giờ phút đầu của năm mới. Giao thừa nhà nào cũng mang ống đi lấy nước mới. Khi đi lấy nước người ta thường mang theo ba nén hương đến cắm bên cạnh máng nước nói với thần nước để xin phép nước mới và khi lấy nước về phải đun ngay một ấm pha chè đặt lên ban thờ mời tổ tiên uống nước. Sau đó cắt giấy đỏ dán vào cửa nhà, chuồng châu, bò, lợn, gà và gián vào các nông cụ sản xuất…

Sáng mùng một Tết mọi người trong gia đình mặc quần áo mới và ăn bữa cơm đầu tiên, khi đã ăn sáng xong mọi người đi chơi tết trước hết là con cháu đến nhà ông bà nội, chúc ông bà mạnh khỏe và con cháu tự làm cơm, ăn tết cùng ông bà, sau đó mới đi chơi các nhà hàng xóm trong bản, đi chơi tết cũng là đi mời ông bà, anh em trong họ trong bản đến ăn bữa cơm đầu năm mới.
Những ngày này, thanh niên nam, nữ tụ tập rủ nhéu đi chơi tết tham gia các hoạt động vui chơi mà người dân trong bản tổ chức như đánh yến, ném còn, đánh sảng, bắn nỏ kéo co… sau đó đến chơi các gia đinh và uống rượu hát lượn trong mấy ngày tết.
Ngày mùng hai Tết là ngày ăn tết đầu năm. Từ lúc gà gáy mọi người đã dậy để mổ gà khi làm thịt gà người ta thường rửa chân và đầu gà mang đến trước bàn thờ hai tay ôm gà ngay ngắn lễ bàn thờ ba lễ khấn tổ tiên rồi cắt tiết. Mâm cỗ phải đủ mười hai món tượng trưng cho mười hai tháng trong năm. Mâm cỗ được sắp xếp theo thứ tự ông bà, cha mẹ, chú bác ngồi mâm gần bàn thờ nhất sau đó mới đến con cháu. Chủ nhà mời mọi người ăn tết con cháu rót rượu vào đĩa quỳ dâng rượu. Trong bữa cơm tết con cháu lần lượt quỳ lậy ông bà, cha mẹ người trên và chúc lại con cháu những lời tốt đẹp động viên con cháu ngày đầu xuân năm mới. Mừng tuổi cho người già trẻ con đến nhà chơi là vài nghìn tiền lẻ hoặc đôi bánh trưng. Con cháu hát mừng tuổi, ca tụng công ơn ông bà cha mẹ người trên. Ông bà cha mẹ cũng hát đối lại để động viên con cháu có hiếu biết kính trọng thương yêu ông bà cha mẹ.
Chiều ngày mùng ba Tết nhà nào cũng mổ gà làm mâm cơm tiễn tổ tiên chở về cõi âm, còn gọi là hóa vàng. Đến ngày mùng bốn Tết nhà nhà bắt đầu mang lễ ra ruộng cúng thần linh, thần đất, thần nước. Chủ gia đình cuốc cày đầu năm để lấy ngày, đó là tục lệ khai xuân xuống đồng đặc trưng của người Tày vẫn thường được diễn ra vào dịp đầu năm còn gọi là lễ hội Lồng tồng.
Đến rằm tháng riêng người Tày lại mổ gà, lại gói bánh trưng ăn tết vào ngày 13, 14. Lễ cúng rừng vào ngày 30 tháng 2, hết ngày cấm của lễ cúng rừng, cúng thần nước thì mới được coi là hết Tết. Cứ thế, năm này qua năm khác, đón Tết của dân tộc Tày ở Hà Giang cứ tồn tại qua hết đời này sang đời khác.

Lễ khao tổ của người Tày, Lạng Sơn
(TH-Cinet-DTV)
Lễ khao tổ là dịp để người Tày (Lạng Sơn) ôn lại nét đẹp trong phong tục của dân tộc, giáo dục thế hệ trẻ nhớ tới cội nguồn của gia đình, dòng họ, cùng lúc ấy thể hiện tính nhân văn, tính cộng đồng…
Đối với mỗi người dân Việt Nam, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” từ lâu đã trở thành truyền thống tốt đẹp trong tâm thức lối sống của mỗi gia đình, dòng họ. tuy nhiên sự phong phú về văn hóa vùng miền, mỗi dân tộc lại thể hiện đạo lý ấy ở những nghi lễ khác nhau. Với người Tày ở Lạng Sơn họ chọn tổ chức lễ khao tổ. Đây là một tục lệ được lưu truyền từ xa xưa của dân tộc Tày, vừa chứa đựng giá trị văn hóa truyền thống lại vừa mang nét văn hóa tộc người rất đặc sắc.
Lễ khao tổ có thể được tổ chức vào bất cứ tháng nào trong năm, tuy nhiên vào dịp cuối năm, khi Tết đến xuân về, công việc đồng áng đã xong xuôi là thời điểm thích hợp nhất để làm lễ.
Phần chuẩn bị cho lễ khao tổ khá đơn giản, gia chủ chỉ cần chuẩn bị một mâm thánh gồm rượu và gạo.
Người chủ trì buổi lễ là một pháp sư. Trước khi vào nghi lễ chính, pháp sư cúng để mời thầy thánh của mình về chứng giám buổi lễ. Sau đó, pháp sư tiếp tục thực hiện các bài cúng để mời tổ tiên của gia chủ. Thường lễ khao tổ sẽ mời tổ tiên chín đời của gia chủ gồm cả nội, ngoại. Trong quy trình “đi mời tổ tiên” về, pháp sư sẽ thực hiện một cuộc trò chuyện dài với tổ tiên của gia chủ từ đời thứ nhất tới đời thứ chín.
Khi pháp sư mời được tổ tiên về tới gia đình của gia chủ. Đến phần này, con cháu trong gia đình phải lập một bàn thờ tổ tiên, bàn thờ được dựng lên có năm cây bói (cây lau) cột xung quanh, được che bằng một tấm vải trắng, tượng trưng cho việc con cháu đã chuẩn bị một buồng khách trang trọng dành cho tổ tiên của mình. Bên trên bàn thờ vẫn là bát hương, rượu và cơm nếp được gói thành gói riêng. Chiếc bàn này dành cho tổ tiên chín đời nội ngoại của gia chủ. Phía dưới bàn là một mâm dành cho người dẫn đường chỉ lối cho tổ tiên vào nhà.
Hai mâm bên dưới là mâm nội ngoại của gia chủ, được trải trên tàu chuối, phía bên trái là mâm bên ngoại, bên phải là mâm bên nội và mâm của mụ sinh, mâm nào cũng có rượu và cơm nếp. Phía bên ngoài có một mâm dành cho người canh gác để buổi lễ được diễn ra an toàn, ngoài sân một mâm che ô dành cho những khách vãng lai tới xem buổi lễ. Lúc này pháp sư tiếp tục cúng để báo cáo lại với tổ tiên con cháu đã đặt mâm đúng vị trí không phạm tới tổ tiên, mọi vị trí đều đã được tẩy uế sạch sẽ, mời tổ tiên về nhận lễ.
Sau đó là lễ trao sinh, tức là mời tổ tiên nhận lễ con cháu dâng. Lễ này gồm gà, lợn sống, được tiến hành ở cả hai không gian trong nhà và ngoài sân, song song với việc cúng của pháp sư, con cháu ở ngoài sân chuẩn bị hành lễ cắt tiết gà, lợn.
Những người được chọn để hành lễ phải được kiêng cữ từ vài ngày trước khi buổi lễ diễn ra. Khi pháp sư thực hiện nghi lễ cúi đầu tức là xin tổ tiên nhận lễ, sau đó ra hiệu cho con cháu bên ngoài hành lễ.
Khi mời tổ tiên sử dụng lễ chín gồm gà luộc, pháp sư sẽ sử dụng lời lẽ trong bài cúng của mình để mong tổ tiên hiểu tấm lòng con cháu. Lúc này pháp sư đứng lên thực hiện nghi lễ, gia chủ đứng phía sau để rót rượu mời tổ tiên.
Sau những lời thỉnh cầu và mời, pháp sư sẽ làm lễ tiễn tổ tiên. Nghi lễ tiễn gồm một con gà tượng trưng cho quà đi đường về của tổ tiên. Khi con gà được tung ra bên ngoài sân là tổ tiên cũng đã lên đường hành trình đi về. Nghi lễ tiễn tổ tiên kết thúc là lúc các đồ lễ sống được mang xuống bếp để chế biến, sau đó dọn ra mâm để mọi người cùng thụ lộc, cầu may mắn.

Tết lúa mới ở bản Tày, Cao Bằng
(TH-Cinet-DTV)
Tết lúa mới là một tục lệ lớn không thể thiếu trong sinh hoạt văn hoá của người Tày ở Trung Khánh (Cao Bằng).
Theo phong tục của người Tày, vào khoảng thời điểm tháng tám âm lịch, trời đất bắt đầu chuyển giao giữa tiết bạch lộ và thu phân. Đó cũng là lúc những bông lúa vụ mùa chuyển màu óng ả, khoe sắc trên nương, bà con dân bản lại cùng nhau tổ chức bày tiệc làm lễ mừng được mùa lúa mới để cúng giàng, cúng tổ tiên. Lễ cúng chính là lòng thành kính của con người đối với đất trời, gửi gắm ước nguyện no ấm vào tương lai…
Theo người dân nơi đây kể lại về nguồn gốc của lễ mừng lúa mới: Thủa xưa có hai anh em trai nhà nghèo khó, cha mẹ lại già yếu. Người dân bản để có cái ăn, quanh năm họ chui rúc trong rừng sâu, bới đào rễ củ trong rừng về ăn. đời sống của họ vẫn cứ tiếp diễn như vậy cho đến khi cha mẹ hai chàng trai mất vì đói. Hai anh em nhà nọ cũng đã trưởng thành. Thấy dân làng quanh năm nghèo khổ, chẳng bao giờ đủ ăn. Họ quyết định đi xa tìm thứ khiến cuộc sống no đủ hơn chú không thể chết dần trong cảnh đói nghèo.

Sau hơn một năm thì họ trở về với bản làng. Họ hồ hởi cho biết đã được “người trời” cho một thứ ngũ cốc ngon hơn ngô mà “người trời” hay ăn. Đó là những hạt lúa. Những hạt lúa nảy mầm rồi ra bông, kết hạt. Người Tày từ ngày đó nhờ hạt lúa làm ấm bụng cũng chẳng còn lo đói nữa. Để ghi nhớ điều kỳ diệu này, mỗi năm bản làng người Tày đều chọn ngày thìn trước mùa lúa gặt về bồ để tổ chức mừng lúa.
Lễ vật sử dụng để chuẩn bị cho lễ cúng trong mâm cỗ người Tày không thể thiếu một bát nước đã được đun chung với ba bông lúa non được lấy về từ ruộng mảnh ruộng mầu mỡ nhất của gia đình. Bởi bà con quan niệm rằng, uống nước này tương lai sẽ không bao giờ đói khát và tránh được mọi tai họa ập đến. Sau khi trình lên bàn thờ tổ tiên, khai bữa cơm gia đình, mọi thành viên sẽ uống ngụm nước đó để tượng trưng cho bữa cơm bằng lúa mới thu hoạch.
Tiếp đến, những món ăn đi kèm là canh mướp ngọt, ốc đồng, khoai sọ, cũng với quan niệm cho rằng, về đời sau con cái được no ấm, hiếu thảo, thậm chí là đuổi được tà ma.

Ngày này vui nhất có lẽ là đám trẻ con, bởi ai ai cũng được mặc quần áo mới, được làm những chiếc khèn bằng những cọng rơm, loa “khuếch đại” âm thanh bằng những bẹ măng, chúng thi nhéu làm khèn để kêu to và vang xa nhất. Ngày tết này trong bản rất vui, nhà nào cũng rộn rã, không khi nào ngưng tiếng kèn.
Những chiếc khèn chỉ có giá trị duy nhất trong ngày này vì người địa phương quan niệm rằng thổi kèn sớm quá lũ chuột nghe thấy sẽ phá hoại mùa màng. Lúc này đây là thời điểm thích hợp để tấu lên những bản nhạc báo hiệu mùa màng đã tốt tươi, chuẩn bị tinh thần để thu hoạch, bước vào mùa vụ sản xuất mới.
Tết lúa mới được kéo dài đến tận buổi chiều muộn. Người già, trẻ chăn trâu ai cũng nô nức tìm lên rừng làm ồ lô rồi đuổi trâu về chuồng sớm để tranh thủ kịp bữa cơm mừng Lúa mới.

Lễ trấn trạch của người Tày ở Bắc Kạn
(TH-Cinet-DTV)
Theo quan niệm của người Tày (Bắc Kạn), thực hiện Lễ cúng trấn trạch sẽ giúp xua đuổi tất cả ma quỷ, giúp cho những thành viên trong gia đình yên tâm làm ăn.
Bên cạnh Lễ cúng cơm mới, Lễ cúng thần thổ địa… thì Lễ cúng trấn trạch là một nghi lễ quan trọng của người Tày. Sau khi làm nhà mới xong, bất cứ gia đình người Tày nào cũng phải làm Lễ trấn trạch. Họ cho rằng, lễ cúng này sẽ giúp xua đuổi tất cả ma quỷ, giúp cho những thành viên trong gia đình yên tâm làm ăn.
Ngôi nhà không đơn thuần chỉ là nơi cư trú mà còn là nơi chứng kiến sự ra đời, trưởng thành và mất đi của mỗi người. Cũng bởi sự gắn bó khăng khít của ngôi nhà với chu kỳ đời người cho nên Người Tày chuẩn bị rất chu đáo, kỹ lưỡng cho nghi lễ này.

Để chuẩn bị cho buổi lễ, từ rất sớm, các thành viên trong nhà cùng nhéu sửa soạn các vật dụng làm Lễ trấn trạch và nấu những món ăn truyền thống cho lễ cúng. Bánh dầy là lễ vật không thể thiếu trong những dịp này. Từ công đoạn giã cơm nếp quyện sánh cho tới nặn bánh đều đặn được làm cẩn thận. Trong mâm lễ vật không thể thiếu món xôi trứng kiến là một trong số những đặc sản của người Tày.
Người Tày sắp xếp mâm cúng theo thứ tự: mâm cao nhất là mâm của tổ tiên, tiếp đến là mâm thầy then rồi đến mâm thánh. Trong khi thầy cúng làm lễ, con cháu trong nhà tập trung quây quần cùng cầu mong những điều tốt đẹp. Họ cảm ơn tổ tiên đã phù hộ độ trì, ước mong xua đuổi được tà ma để có đời sống no ấm.
Những lá sớ sẽ được dán vào 4 cây cột tương ứng với 4 hướng trong nhà. Thầy cúng giơ lệnh bài trước những lá sớ rồi đem đi đốt. Điều này khiến ma quỷ trong nhà không còn nơi trú ngụ.

Bên cạnh lễ trấn trạch, nghi lễ lên nhà mới của người Tày với còn một số nghi lễ sau:
Mang nước lên nhà: Theo tập quán của người Tày thì bà ngoại “nai”, bà nội “gia” hoặc người vợ “mi” sẽ là người đầu tiên xông nhà mới và mang ống nước lên dội vào bốn cột cái để cầu cho sau này làm ăn sinh sống sẽ mát mẻ, thuận lợi.
Mang lửa lên nhà: Ông nội “pú” hoặc chồng “pù” cầm bó đuốc, cầm củi lửa lên đốt ở gian giữa nhà dưới tấm vải đỏ. Họ còn cầm theo bốn gói muối đặt ở bốn góc của đống lửa, dúm thóc đặt vào 8 góc của ngôi nhà. Ý nghĩa của việc mang thóc lên nhà mới với hàm ý no đủ, mùa màng tốt tươi, nó còn là nơi giữ “vía” của chủ gia đình khi đặt lên các cột. Lửa được đốt liên tục trong ba ngày ba đêm không để tắt, giữ cái đỏ may mắn trong nhà.
Đốt pháo ăn mừng và dán giấy đỏ: Dựng xong nhà mới, người Tày có phong tục đốt pháo ăn mừng nhà mới, thể hiện sự vui sướng, phấn khởi của tất cả mọi người. Họ còn treo vải đỏ ở cửa ra vào và dán giấy đỏ ở hai bên cửa thể hiện sự may mắn, vui mừng của gia chủ.
Rước bát hương lên bàn thờ nhà mới: Thời gian rước bát hương phải diễn ra trước khi mặt trời lặn thì sẽ không bị mất hết những may mắn, phát tài, phát lộc. Khấn xong mang bát hương đặt lên bàn thờ mới thì các Thủ tục lên nhà mới của người Tày đã xong.
Sau khi các nghi lễ lên nhà mới kết thúc, gia chủ mời anh em, họ hàng cùng vào mâm ăn cỗ mừng nhà mới. Những ai biết hát thì vừa uống rượu vừa hát các bài hát dân ca kể về quy trình dựng nhà mới: từ khi đeo bao dao đi tìm cây gỗ về dựng nhà, đi lên rừng tìm rau về làm món ăn… Không khí đón mừng nhà mới đông vui náo nhiệt lan ra khắp cả bản, những anh em ở xa cùng về dự đông đủ. Bởi thế, Lễ trấn trạch của người Tày, ngoài ý nghĩa xua đuổi tà ma, còn là dịp để chủ nhà cảm ơn những người thân trong gia đình đã giúp đỡ họ hoàn thành ngôi nhà và thắt chặt tình đoàn kết trong gia đình.

Lễ mừng thọ – nét đẹp trong văn hóa của người Tày ở Cao Bằng
(TH-Cinet-DTV)
Lễ mừng thọ cho người cao tuổi là dịp để con cháu thể hiện sự tôn kính với các bậc cao niên được thực hiện với nghi thức tôn nghiêm, trang trọng, mang bản sắc văn hóa và tín ngưỡng của từng dân tộc trên mảnh đất hình chữ S.
cũng như nhiều dân tộc khác, người Tày miền Đông Cao Bằng quan niệm trong vũ trụ luôn tồn tại cõi âm và cõi dương. Cõi dương hiện hữu, cõi âm vô hình nhưng lại có tác động đến cuộc sống tâm linh của con người. Bản thân con người luôn tồn tại phần xác và phần hồn, vía mà người Tày gọi là “khoăn”. Đàn ông có 7 khoăn, đàn bà có 9 khoăn, người có 30 vía đằng trước, 50 vía đằng sau, 12 vía giữ thân. Theo tâm thức, sở dĩ con người sống được là do khoăn hội tụ đủ trong người, khi bịch gạo hồn ở trên trời còn đầy, cây mệnh xanh tươi, cầu mệnh vững chắc. Theo vòng quay can tri, cứ 12 năm quay trở lại năm tuổi. Thông thường đến tuổi 49 con người bắt đầu có biểu hiện của tuổi già như hay đau ốm, mắt mờ, hay gặp vận hạn… Tức là lúc đó bịch gạo hồn đã vơi, cây đã bị úa, cầu mệnh đã bị mục. Nên người ta tổ chức lễ mừng thọ mà người Tày gọi là “Pú lường” tức bù lương cho bịch gạo hồn được đầy trở lại, trồng cây mệnh xanh tươi, bắc lại cầu mệnh vững chắc. Người ta làm lễ để trình lên Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu gia hạn thêm cho người được làm thọ sống lâu, sống vui.
Lễ mừng thọ của người Tày nơi đây thường được tổ chức vào những ngày đầu xuân. Buổi lễ được tổ chức bắt đầu từ 0 giờ, nhưng ngay từ chiều tối, nhà đã tấp nập từ trẻ già lớn bé. Con cháu, họ hàng mỗi người mang theo một con lợn quay, một gánh có đầy đủ gạo, thịt, rượu… Những tấm chướng bằng vải màu của con cháu mang đến mừng thọ được treo trang trọng quanh nhà. Ở mỗi tuổi làm thọ, tấm chướng được chọn màu và viết nội dung cho phù hợp: 49 tuổi ghi chữ phúc, nếu thọ 61 ghi chữ thọ, 73 ghi chữ khang, và tuổi 85 ghi chữ ninh. Người nào đạt đến tuổi này là đã hội đủ 4 chữ phúc, thọ, khang, ninh trong người.
Đúng 0 giờ, thầy Tào bắt đầu hành lễ. Trước tiên, thầy Tào trình báo lên tổ tiên, các vị thần về lý do buổi lễ, cúng các cỗ vật lên tổ tiên. Sau đó một người trong gia đình đi lên rót rượu, thắp hương vái lạy. Hành động này kết thúc việc trình báo, đã mời được tổ tiên về chứng giám cho buổi lễ.
Tiến trình hành lễ bắt đầu từ giải hạn. Thầy Tào, Pựt, đọc những lời ca, bài hát. Sau mỗi khúc hát của Tào, Pựt, một người lại đi lên rót rượu và thắp hương. Những lời ca đều mang nghĩa tập hợp binh mã, chép lễ và hành trình dâng lên trời. Trong chuyến đi này, đoàn quân phải trải qua thường xuyên chặng từ khi chuyển lương xuống thuyền, qua chặng nào cũng dâng vàng mã, xin các thần cho qua. Khi đã đến được chốn vua Ghi – vị vua trông coi hoạn nạn trên trời, đoàn xin phép vua giải hạn cho gia chủ mọi bề bình yên. Trong quá trình cống vật, đoàn phải trải qua 12 cửa lầu môn trình cả mẹ Sử thả vía cho người được làm thọ, đổi số cho đương sự được an khang, trường thọ, tống tà quỷ ra khỏi nhà.
Giải hạn xong, thầy bắt đầu “Gọi hồn” của cả gia đình. Túi áo hồn của gia đình được đặt sát mâm của thầy Tào, Pựt theo thứ tự từ cha, mẹ, con, cháu. Pựt sẽ gọi hồn vía (tức khoăn) đã siêu tán đi nơi khác trở về nhập vào thân xác. Sau khi gọi hồn cả gia đình, Pựt gọi “khoăn” của người được làm thọ. Động tác gọi “khoăn” làm 3 lần, đồng thời sóc tấm thẻ. Nếu 2 thẻ cùng ngửa thì thu được hồn về, nếu một sấp một ngửa thì hồn vẫn thất tán, phải làm lại đến khi hai thẻ cùng ngửa mới thu được khoăn về.
Sau phần hát gọi hồn, thầy Tào tiếp tục chỉ đạo chuyển lương. Con cháu họ hàng ngồi xếp hàng đối diện, từ thúng gạo của con cháu trải một tấm vải trắng trên lớp vải đen dẫn đến lầu bổ lương tượng trưng cho chiếc cầu nối từ hạ giới lên thiên đình. Trên mặt vải đặt những chiếc đũa xếp hình chữ chi cùng vàng mã tượng trưng là thanh cầu và tiền hành lộ. Thầy xúc từng bát gạo ra bát đem theo vàng mã và ít tiền lẻ rồi làm niệm chú và được cho con cháu truyền tay nhau đổ vào lầu bổ lương. Khi bịch gạo hồn đã đầy, số gạo dư trong thúng lẫn những đồng tiền sẽ được thầy Tào, Pựt ban lại cho con cháu coi như lộc của ông bà, cha mẹ.
Còn chiếc lầu bổ lương được 1 người con trong gia đình đưa lên buộc vào cây thượng lương ở trên gác. Còn ở dưới, Tào, Pựt cũng hát những khúc hát chúc tụng tốt đẹp cầu mong cho đương sự mọi điều an hòa, trường thọ, con cháu vui vầy. Sau khi mọi nghi thức trong nhà đã xong xuôi, 2 người được thầy chọn đem hai cây tre, cây chuối tượng trưng cho hai cây mệnh đưa ra ngoài vườn, chọn nơi đất tốt, trồng và rào chắn cẩn thận để cây mọc lên xanh tươi. Tại đây, người ta cũng rót rượu, thắp hương để báo cáo việc mình làm.
Việc mừng thọ không chỉ biểu lộ về lòng kính trọng, biết ơn đối với ông, bà, cha, mẹ, mà còn là lúc để con cháu nhìn lại bản thân xem mình đã làm gì để cha mẹ ông bà tự hào, lấy đó làm niềm vui sống lâu, sống khỏe với con cháu.
Mừng thọ cho người cao tuổi đối với người Tày nói riêng và các dân tộc nói chung là một truyền thống có từ lâu đời, nó không những thể hiện nền nếp, gia phong của một gia đình mà còn mang ý nghĩa về văn hóa dân tộc đó.

Đôi nét về Chữ Nôm của dân tộc Tày, Bắc Kạn
(TH-Cinet-DTV)
Ngoài những nét đặc trưng tiêu biểu về phong tục tập quán, một vài tộc người ở Bắc Kạn còn có chữ viết riêng, trong đó phải kể đến chữ Nôm của dân tộc Tày.
Là một tỉnh miền núi, Bắc Kạn có thường xuyên dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 53%. Cộng đồng người Tày ở Bắc Kạn sống rải rác ở khắp các huyện, thị. Trong cuộc sống hàng ngày, họ sử dụng tiếng Tày là chủ yếu, còn chữ Nôm rất ít khi dùng mà chỉ sử dụng trong các lễ cúng bái hay trong các truyện thơ, ca dao, tục ngữ.
Chữ Nôm Tày là một sáng tạo tập thể của thường xuyên thế hệ trí thức người Tày, được ra đời từ khoảng thế kỷ XV-XVI, phát triển mạnh trong thời kỳ nhà Mạc cát cứ ở Cao Bằng và tồn tại đến ngày nay. cũng như những dân tộc khác đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, cư dân Tày Bắc Kạn từ lâu đời đã biết sử dụng hệ thống ký tự chữ Hán để ghi âm Tày và được các nhà nghiên cứu gọi là chữ Nôm Tày.
Về loại hình, chữ Nôm Tày là chữ khối vuông, thuộc thể loại chữ tượng hình, kế tục và phát triển từ chữ Hán của dân tộc Hán ở phương Bắc. Vì vậy trong cách viết, chữ Nôm Tày phải tuân thủ trình tự, hình thức viết của chữ Hán là trên trước, dưới sau; trong trước, ngoài sau; trái trước, phải sau; viết từ trái sang phải, từ trên xuống dưới (theo hàng dọc); dùng bộ thủ chữ Hán để nhận biết ngữ nghĩa, mặt chữ.
Chữ Nôm Tày được viết trên giấy bản do người dân địa phương tự sản xuất (tiếng Tày gọi là chỉa sla). Khi viết dùng bút lông thấm mực tàu tay đưa đều ngọn bút trên giấy viết tạo thành nét thanh, nét đậm. Muốn viết chữ đẹp phải khổ luyện sao cho tay viết vừa mềm mại, vừa rắn rỏi, nét chữ lúc thanh, lúc đậm, chữ viết vuông vắn, cân xứng, đều.
Người Tày quan niệm đây là chữ của “thánh hiền” nên khi viết phải cung kính, tư thế ngay ngắn, sách vở để trong rương, trong hòm như những vật quý trong gia đình. Chữ Nôm Tày có cấu tạo tương tự như chữ Nôm Việt. Trong chữ Nôm Tày có hiện tượng dùng những chữ Hán Việt, giữ nguyên nghĩa gốc nhưng đọc theo âm tiếng Tày. Ví dụ như chữ Hoàng đọc theo âm Hán Việt có nghĩa là hoàng đế, đọc theo Nôm Tày là “vuồng”.
tuy nhiên, chữ Nôm Tày cho đến nay vẫn chưa hình thành bộ chữ thống nhất, có những chữ cùng âm, cùng ngữ nghĩa lại có thường xuyên tự dạng khác nhau. Điều này là do trong điều kiện trước đây chữ Nôm Tày được lưu hành thông qua truyền dạy trực tiếp và sao chép thủ công nên đã có nhiều biến thể. Có thường xuyên chữ khi viết được người viết giản lược nét, viết tắt, viết thảo (lối viết nhénh, liền nét, chỉ giữ một vài nét trọng tâm trong chữ) nên nếu không có một trình độ nhất định về chữ Hán thì không thể đọc được văn Nôm Tày.
Chữ Nôm Tày được dùng để ghi chép nhiều nhất trong sách cúng của các thầy Tào, mặt khác còn được sử dụng để ghi chép các truyện thơ của người Tày, sách hát lượn cọi. Do trước đây số lượng người biết chữ ít nên với những sách ghi chép truyện thơ, tri thức dân gian muốn truyền tải đến người dân thường phải thông qua một người sử dụng thông thạo chữ Nôm Tày ở địa phương.
hiện nay, việc truyền dạy chữ Nôm Tày vẫn chủ yếu bằng phương pháp “nhập tâm truyền khẩu” và người dân tộc thiểu số biết được chữ viết của mình qua một số tác phẩm viết bằng tiếng dân tộc của những nhà văn, nhà thơ ở địa phương, hay qua những câu lượn, lời cúng của thầy Tào. do đó bảo tồn và phát huy chữ Nôm của người Tày là một việc làm rất rất cần thiết đối với tỉnh Bắc Kạn, nhất là khi chữ Nôm Tày vừa được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Bảo tồn chữ Nôm của dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn
(Thu Trang)
Chữ Nôm của dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn vừa được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đó là một hệ thống chữ viết mang nét văn hóa riêng, đặc sắc của dân tộc Tày ở Bắc Kạn. tuy nhiên những người có thể đọc thông, viết thạo chữ Nôm Tày còn rất ít. do đó việc lưu giữ, bảo tồn hệ thống chữ viết này là hết sức cần thiết.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, vùng cao, nơi quần tụ của nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 53% dân số toàn tỉnh. Văn hoá của mỗi tộc người bao hàm nhiều yếu tố và chứa đựng những tổng giá trị rất riêng. Ngoài những nét đặc trưng tiêu biểu về phong tục tập quán, một vài tộc người ở Bắc Kạn còn có chữ viết riêng, trong đó có chữ Nôm của dân tộc Tày. Cộng đồng người Tày ở Bắc Kạn sống rải rác ở khắp các huyện, thị trong toàn tỉnh. Trong đời sống mỗi ngày, họ sử dụng tiếng Tày là chủ yếu, còn chữ Nôm rất ít khi dùng mà chỉ sử dụng trong các buổi lễ cúng bái hay trong các truyện thơ, ca dao, tục ngữ.
Theo bà Hoàng Thị Hiền, Trưởng phòng Di sản, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch: Chữ Nôm Tày là một sáng tạo tập thể của thường xuyên thế hệ trí thức người Tày, được ra đời từ khoảng thế kỷ XV – XVI, phát triển mạnh trong thời kỳ nhà Mạc cát cứ ở Cao Bằng và tồn tại cho đến ngày nay. cũng như những dân tộc khác hiện đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, cư dân Tày Bắc Kạn từ lâu đời đã biết dùng hệ thống ký tự chữ Hán để ghi âm tiếng Tày và được các nhà thống kê gọi là chữ Nôm Tày.
Về loại hình, chữ Nôm Tày là chữ khối vuông, thuộc thể loại chữ tượng hình, kế tục và phát triển từ chữ Hán của dân tộc Hán ở phương Bắc. Là thể chữ tượng hình, chữ khối vuông nên trong cách viết, chữ Nôm Tày cũng phải tuân thủ trình tự, hình thức viết chữ của chữ Hán đó là: Trên trước, dưới sau; trong trước, ngoài sau; trái trước, phải sau; viết từ trái sang phải, từ trên xuống dưới (theo hàng dọc); dùng bộ thủ chữ Hán để nhận biết ngữ nghĩa, mặt chữ.

Chữ Nôm Tày được viết trên giấy bản do người dân địa phương tự sản xuất (tiếng Tày gọi là chỉa sla), khi viết sử dụng bút lông thấm mực tàu tay đưa đều đặn ngọn bút trên giấy viết tạo thành nét thanh, nét đậm. Muốn viết chữ đẹp phải khổ luyện sao cho tay viết vừa mềm mại, vừa rắn rỏi; nét chữ lúc thanh, lúc đậm, chữ viết vuông vắn, cân xứng, đều. Người Tày quan niệm đây là chữ của “thánh hiền” nên khi viết phải cung kính, tư thế ngay ngắn, sách vở để trong rương, trong hòm như những vật quý trong gia đình.
Chữ Nôm Tày có cấu tạo tương tự như chữ Nôm Việt. Trong chữ Nôm Tày có hiện tượng sử dụng những chữ Hán Việt, giữ nguyên nghĩa gốc nhưng đọc theo âm tiếng Tày. Ví dụ như chữ Hoàng đọc theo âm Hán Việt có nghĩa là hoàng đế, đọc theo Nôm Tày là “vuồng”.
mặc khác, chữ Nôm Tày cho đến nay vẫn chưa hình thành bộ chữ thống nhất, có những chữ cùng âm, cùng ngữ nghĩa lại có thường xuyên tự dạng khác nhéu. Điều này là do trong khó khăn trước đây chữ Nôm Tày được lưu hành thông qua truyền dạy trực tiếp và sao chép thủ công nên đã có nhiều biến thể. Có thường xuyên chữ khi viết được người viết giản lược nét, viết tắt, viết thảo (lối viết nhénh, liền nét, chỉ giữ một vài nét trọng tâm trong chữ) nên nếu không có một trình độ nhất định về chữ Hán thì không thể đọc được văn Nôm Tày.
Chữ Nôm Tày được sử dụng để ghi chép thường xuyên nhất trong sách cúng của các thầy Tào, ngoài ra còn được sử dụng để ghi chép các truyện thơ của người Tày, sách hát lượn cọi. Ông Hoàng Văn Phúc, sinh năm 1930, dân tộc Tày, ở thôn Nà Coóc, xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm là người còn lưu giữ được nhiều sách chép bằng chữ Nôm Tày do người xưa để lại. Trong chiếc tủ đựng sách của mình, những quyển sách chữ Nôm Tày được ông để ngay ngắn, cất giữ cẩn thận. Là một thầy Tào nên ông thường sử dụng những quyển sách chữ Nôm Tày để cúng, làm lễ cho thường xuyên gia đình ở địa phương. thường xuyên quyển sách của ông qua bao năm tháng đã ngả màu, nhiều trang không còn được phẳng phiu, nguyên vẹn. Nhưng trong mỗi quyển sách đều đặn hàm chứa một nét văn hóa độc đáo của người Tày, như quyển Sléc Tuổn (sách cúng sử dụng trong lễ đầy tháng của dân tộc Tày); cuốn Sléc Chải, mo (sách cúng dùng trong cầu yêu, giải hạn); Sléc Quét lườn (sách cúng vào nhà mới, giải uế, giải hạn); Sléc truyện thơ Tần Chu (sách truyện thơ Tần Chu)…

Ngồi bên ấm trà nóng, ông Phúc đọc những câu thơ trích từ sách cúng của mình cho Chúng Tôi nghe:
…Slấn cỏi cụm hương lân sloong tuyền Cụm thuổn tằng slị hiến nhình chài Tu khỏi đẩy vạng lai pây tẻo Nhờ ơn slấn hiếu liệu slương thâng…
Dịch nghĩa:
…Thần hãy phù trợ cho mọi nhà trong bản được song tuyền Phù hộ cả nho sĩ, hiền tài, gái trai Để tôi được đi lại chốn này Nhờ ơn thần chiếu cố thương cho…
Ông giải thích thêm, chữ Nôm Tày dùng trong các sách cúng về âm đọc gần với âm đọc bằng tiếng Quan Hỏa trong các sách cúng của thầy Tào, nên nếu không phải là thầy Tào thì không thể đọc và giải nghĩa được những văn bản này. Ngược lại, chữ Nôm Tày sử dụng để ghi chép truyện thơ, hát lượn lại gần gũi với ngôn ngữ thường ngày của tộc người Tày nên người nghe dễ hiểu hơn.
Nhấp một ngụm trà, đôi mắt nhìn xa xăm, ông Phúc buồn rầu cho biết: Ngày nay còn rất ít người có khả năng đọc thông, viết thạo chữ Nôm Tày. Phần lớn những người này đều đặn đã cao tuổi, đặc biệt là những người làm nghề thầy cúng. Nếu không có những biện pháp bảo tồn khẩn cấp thì trong vài năm nữa di sản này sẽ bị thất truyền.
Do trước đây số lượng người biết chữ ít nên với những sách ghi chép truyện thơ, tri thức dân gian muốn truyền tải đến người dân thường phải thông qua một người sử dụng thông thạo chữ Nôm Tày ở địa phương. Như trong hát lượn cọi, một người đọc các câu lượn trước để người hát theo đó ngâm sau, người nhắc lời tiếng Tày này gọi là “slấy cá”, ở trong lượn slương cũng có người nhắc lời như vậy. Thông qua những cách thức như thế này mà thường xuyên truyện thơ, thơ ca dân gian được lưu truyền cho thế hệ sau. Để lưu giữ và bảo tồn chữ Nôm Tày, ông Phúc cũng đã truyền dạy lại cho người con trai của mình là Hoàng Văn Lý, thi thoảng hai cha con ông vẫn đi cúng cho những người dân trong bản.
Với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, Bắc Kạn đã có nhiều nỗ lực trong việc khôi phục và bảo tồn di sản văn hoá trong đó có chữ viết của các dân tộc thiểu số (bao gồm cả chữ Nôm Tày và Nôm Dao). tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy chữ Nôm Tày là một việc làm rất khó. hiện nay, việc truyền dạy chữ Nôm Tày vẫn chủ yếu bằng phương pháp “nhập tâm truyền khẩu”; người dân tộc thiểu số biết được chữ viết của mình qua một số tác phẩm viết bằng tiếng dân tộc của những nhà văn, nhà thơ ở địa phương, hay qua những câu lượn, lời cúng của thầy Tào. do đó, việc bảo tồn và phát huy chữ Nôm của người Tày là một việc làm rất cần thiết trong những năm tiếp theo, nhất là khi chữ Nôm Tày vừa được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Độc đáo kiến trúc cổ nhà sàn đá của người Tày, Cao Bằng
(TH-CinetDTV)
Không giống như những ngôi nhà sàn được dựng bằng tre, gỗ thông thường, nhà sàn của người Tày ở Trùng Khánh (Cao Bằng) lại được xếp bằng đá. Đây chính là điểm nổi bật và khác biệt so với những ngôi nhà sàn ở vùng khác.
Dân tộc Tày ở Trung Khánh thường có tín ngưỡng thờ đá. Họ coi đá là khởi nguồn của sự sống và là trung tâm của vũ trụ. Họ quan niệm rằng, con người nảy sinh từ đá và khi chết sẽ hóa thành đá. Việc dựng nhà đá cũng xuất phát từ những quan niệm thiêng liêng đó. Họ hy vọng các thành viên sống trong nhà đá sẽ có linh tính về mọi việc, tránh được rủi ro.
Hiện, những ngôi nhà sàn cổ xây bằng đá của người Tày, huyện Trùng Khánh vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên khôi, mang dáng dấp cổ xưa từ thời nhà Mạc xây dựng thành quách mấy trăm năm về trước; tạo nên vỉa tầng văn hóa độc đáo trong tổng thể vùng văn hóa phong phú trên mảnh đất vùng biên viễn này.
Để xây dụng một ngôi nhà đá, người Tày phải mất rất nhiều công sức. Bắt đầu từ khi đã có ý định dựng nhà, họ đã phải chuẩn bị nguyên liệu trước đó vài năm. Những cây gỗ tròn, đẹp được bảo quản dưới bùn ao, đầm ruộng để phòng mối mọt. Nguyên liệu quan trọng nhất để dựng nhà đá chính là những viên đá cứng, đẹp. Những viên đá được hình thành từ sâu trong lòng đất, trải qua điều kiện địa chất phức tạp và dài lâu, hấp thụ tinh hoa của đất trời nên mang trong mình nguồn năng lượng và linh tính rất cao. Từ suy nghĩ sâu xa mang thiên tính núi ấy, những bức tường đá kiên cố đã dần được hình thành, nó thể hiện rõ tính bản địa, sự sáng tạo độc đáo trong lãnh địa kiến trúc và sự khéo léo của đôi bàn tay của đồng bào Tày nơi đây.
Trước khi dựng nhà, người Tày chọn địa điểm dựng nhà khá kỹ lưỡng. Đó là những nơi cao ráo, lấy chân núi làm điểm tựa, hướng mặt về phía có cảnh trí thiên nhiên khoáng đạt, tiện cho việc làm ăn sinh sống. Nhà sàn có hai mái được lợp bằng ngói âm dương. Bên trong nhà dựng bằng gỗ, chiều sâu từ 5 đến 7 hàng cột, khoảng cách giữa các cột từ 2 – 2,5m. Chiều cao của nhà thường từ 7 – 8m. Nhà thường có ba gian chính, mỗi gian có một chức năng nhất định tiện cho việc sinh hoạt.
Khi đã định vị được ngôi nhà, người thợ sẽ đo, đếm vị trí xếp từng viên đá. Những bức tường kiên cố được xếp từ hàng vạn viên đá lớn nhỏ khác nhéu bằng một thứ keo kết dính trộn từ đá vôi và cát. Để đặt được viên gạch vuông vức khi xây không dễ dàng chút nào, nhưng việc xếp hàng trăm viên đá với đủ các hình khối, trọng lượng khác còn khó gấp bội. điều kiện nhất trong việc xếp đá là làm sao để độ dày hai bên của một bức tường phải thật cân đối, vuông vức. Chỉ cần lệch một chút sẽ phải gỡ đi xếp lại từ đầu. Dựng được một bức tường gạch chỉ mất vài ba ngày nhưng để xếp được một bức tường bằng đá thì người thợ phải mất vài tháng.
Một lý do nữa sở dĩ người Tày nơi đây thường xây nhà bằng đá là do họ sống trong hệ sinh thái của rừng mưa nhiệt đới, độ ẩm cao, mưa thường xuyên, trước đây thú dữ lắm, vùng biên giới Trùng Khánh lại thường xảy ra nạn trộm cướp nên đồng bào Tày đã sáng tạo ra cấu trúc nhà sàn xây bằng đá, nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ, chống ẩm mốc. Như vậy, trong tâm thức của họ, thiên nhiên có tác động không nhỏ trong cách xây dựng kiến trúc một ngôi nhà.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những ngôi nhà sàn cổ xây bằng đá của người Tày nơi đây vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên khôi, mang dáng dấp cổ xưa từ thời nhà Mạc xây dựng thành quách mấy trăm năm về trước. Ngôi nhà sàn cổ xây bằng đá của tộc Tày, huyện Trùng Khánh trở thành biểu tượng văn hóa vật chất mang nhiều giá trị, thể hiện kiến trúc văn hóa độc đáo và ẩn chứa bên trong những phong tục tập quán truyền thống được hun đúc qua thường xuyên thế hệ.

Trang phục dân tộc Tày
(TQ-DTV)
Nhìn chung người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm nên trang phục của họ màu chủ đạo là màu chàm, phụ nữ thường chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc.
Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Không ai rõ nghề dệt thổ cẩm của người dân tộc Tày có từ bao giờ, mà chỉ biết những tấm vải thổ cẩm do chính họ dệt ra từ lâu đã nổi tiếng với những hoa văn đẹp mắt, sặc sỡ, mang đậm sắc thái dân tộc.
Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu. tuy nhiên, do giá tơ tằm đắt nên ngày nay người dệt thổ cẩm sử dụng len có chi phí thấp hơn để thay thế. quá trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công và chính đôi tay khéo léo và sự nhẫn nại của người phụ nữ Tày mà những tấm thổ cẩm nên hình nên dạng vô cùng đặc sắc. Từ những tấm thổ cẩm tự tạo ấy người phụ nữ Tày may thành mặt chăn, mặt địu, khăn trải giường và nhất là những bộ trang phục đặc sắc của dân tộc.
Trang phục nam giới người Tày có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối. mặt khác, họ còn có thêm áo 4 thân, đây là loại áo xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải và có hai túi nhỏ ở phía trước.

Vào những ngày hội hè người ta mặc áo cánh trắng ở trong có lẽ Vì vậy mà người Tày còn được gọi là người áo trắng (cần slửa khao) để phân biệt với người Nùng thường chỉ mặc áo chàm. ngoài ra, đàn ông Tày còn mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
Về trang phục nữ giới, đó là mặc áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Phụ nữ Tày còn thắt lưng bằng những tấm vải chàm hay đũi dài khoảng hai sải tay làm tăng thêm vẻ duyên dáng nhất là với thanh nữ. Trong những ngày lễ tết, họ mặc thêm chiếc áo trắng ở bên trong.
Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; đó là loại quần về nguyên tắc cắt may giống phái mạnh kích thước có phần hẹp hơn. Khăn phụ nữ Tày cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ quạ của người Kinh.
Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bàng và rộng. Trang sức phụ nữ Tày dễ dàng song có đủ các chủng loại cơ bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích… Có nơi còn đeo túi vải.

Nói tới trang phục của người Tày, ta không thể không nói tới hoa văn trên trang phục của họ. Cái độc đáo nhất là lối dùng màu chàm thường nhật, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Cái lưu ý không phải là lối tạo dáng mà là phong cách mỹ thuật như đã nói trên. thường xuyên tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày gần như các màu ngũ sắc được sử dụng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm. Riêng nhóm Pa dí (Lào Cai) có phong cách tạo dáng và trang trí khá độc đáo ở lối đội khăn và y phục.
Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan thường xuyên đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của thường xuyên cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.
Trên mặt chăn hoặc màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên – tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới – tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới – là những bố cục riêng xuất hiện trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.
Ngày nay, trang phục truyền thống Tày vẫn thường nhật nhất là trong các ngày lễ cổ truyền, nhưng áo cánh, áo sơ mi vẫn được thường xuyên thanh niên mặc, còn trong ngày thường, họ mặc trang phục hầu như người Kinh.
Chàng Cụt (Truyện cổ tích dân tộc Tày)
(H.T.Đ – Ghi theo lời kể bà Đặng Thị Tích)
Thuở xa xưa, có một người góa bụa chẳng có mụn con nào. Ngày ngày phát cỏ làm rẫy chăm chỉ mà vẫn chẳng có của ăn của để.
Một hôm, bà làm lụng mệt mỏi quá, người vã mồi hôi ướt đẫm, cổ họng bỏng rát, khát nước vô cùng. Lúc đó, phía mặt trời mọc bỗng tối sầm tối sịt như mưa to sắp ập đến, còn phía mặt trời lặn lại bừng sáng, chiếu những tia nắng hồng rực. Hai sắc màu ấy giao nhéu ở nơi người đàn bà goá bụa đang rẫy cỏ, tạo ra bảy sắc cầu vồng thật đẹp. Mải ngắm những sắc màu trên trời, khi nhìn xuống chân, bà thấy có độ một bát nước đọng trong hốc đá. Bà liền vục tay múc nước uống cho đỡ khát rồi về nhà. Bất chợt bà vấp phải quả trứng màu trắng bạc. Thấy lạ, bà liền cầm về để ở xó nhà. Đêm nằm, bà mang quả trứng cặp vào nách, lúc để cạnh gối đầu.
Một thời gian sau, trứng nở ra một con thuồng luồng nhỏ bé, cổ vằn đỏ sặc sỡ. Thuồng luồng con cứ trườn quanh và bò theo bước chân người đàn bà goá bụa. Bà đi đến đâu thuồng luồng theo đến đó. Thuồng luồng con theo bà lên nương, thuồng luồng quanh quẩn bên cạnh. Một hôm do sơ ý, bà cuốc ngay một nhát trúng đuôi thuồng luồng. Bị đứt đuôi, thuồng luồng con khóc và nói: “Lục là cần nưa fạ tốc/ Nhờ mè fặc mà lục đảy trông đây/ Lục bấu mì khen mì kha/ Tọ lục hắt đảy việc đây nắm nớ ” (Con là người trên trời rơi xuống/ Nhờ mẹ ấp mà con được nở xinh/ Con không có tay có chân/ Nhưng con làm được việc tốt đấy nha). Nghe xong lời thuồng luồng nói, bà thương thuồng luồng con, tuy là loài rồng rắn nhưng được nở ra từ hơi ấm của bà. Đời goá bụa, bà coi thuồng luồng như con. Bà liền bế thuồng luồng trên tay và ngửa mặt lên phía mặt trời đằng Đông, xin phép đặt tên con là ý Cọt (chàng Cụt).
Ngày qua ngày, chàng Cụt vẫn theo mẹ lên nương làm rẫy như mọi khi. Một hôm vào buổi chiều, chàng Cụt khát nước quá, đòi mẹ lấy nước cho uống. Mẹ nghỉ tay cuốc, xuống suối múc nước vào ống cây đem cho chàng Cụt uống. Bà xách bao nhiêu lần nước mà chàng Cụt vẫn không hết khát. Bà bảo với chàng Cụt: “Mẹ múc sắp cạn cả khe suối rồi, đôi chân mẹ đã mỏi nhừ. Mẹ không còn đủ sức múc nước cho con uống nữa”. Bà than với trời và làng bản rằng: “Vàn bản cái lìn khuông/ Vàn mường cái lìn nặm/ Vàn pạ hẩu phân lồng/ Hưa mè mải liệng lục” (xin làng bắc máng to/ xin mường bắc máng nước/ xin trời cho mưa xuống/ Giúp bà goá nuôi con).
Bà vừa dứt lời thì trời chuyển gió, cây cối ngả nghiêng, sấm chớp đùng đùng, mưa to xối xả, nước chảy ào ào cuốn từ các khe núi xuống không ngớt. Bà gọi Cụt ra uống nước cho no và thủ thỉ với Cụt: “Mẹ không còn đủ sức nuôi con, hay con theo dòng nước chảy về sông, về hồ mà sống”. Chàng Cụt giẫy nẩy van xin: “Mẹ cho con ở với mẹ, con đỡ mẹ làm việc được mà”. Từ đó bà làm việc trên nương, chàng Cụt ở nhà nấu cơm, dọn bếp. Đến bữa mẹ đi làm về, chàng Cụt đã sắp cơm tươm tất chờ mẹ ăn. Thấy lạ, bà bèn hỏi Cụt: “Cần dú hâư piến mà/ Tón phọn phặt hắt kin/ Hay bân hưa bân hắt/ Điếp mè mải pạng đang” (Người ở đâu hiện đến/ Bữa dọn dẹp làm ăn/ Hay trời thương trời làm/ Thương mẹ góa nửa thân). Cứ thế, ngày này qua ngày khác, việc đồng bà làm, việc nhà Cụt lo liệu đâu vào đó.
Một ngày kia, bà thấy trong người yếu mệt, lưng hay mỏi. Chàng Cụt càng ngày khôn lớn, mào trên đầu đỏ chót, lưỡi thè lè hồng rực. Lo chẳng biết mình còn đủ sức nuôi chàng Cụt nữa không, bà nghĩ ngợi suốt đêm. Gần sáng, bà gọi Cụt đến gần và bảo: “Mẹ già yếu lắm rồi, mẹ khoác lên mình cho con tấm chăn hoa mẹ tự thêu dệt này, con hãy trườn theo dòng suối to, ra sông lớn rồi ra biển cả, ở đó thường xuyên nước, con tha hồ uống, tha hồ vùng vẫy. Nếu mẹ có việc gì cần mẹ sẽ gọi con giúp. Vừa dặn bà vừa lẩm bẩm khấn: “Từ nẩy cần hây hăn ngược hò khoẳm lè thai/ Từ nẩy cần hây hăn ngược hò lài là quải” (Từ nay người nào thấy rồng cổ gục thì chết/ Từ nay người nào thấy rồng cổ hoa là quái). Nói xong bà đẩy Cụt xuống suối lớn. Chàng Cụt quấn mình ba vòng trườn quanh mẹ để tạ ơn mẹ, cố vẫy cái đuôi cụt ba lần, nước mắt rưng rưng, lặn xuống dòng nước đang xoáy xâu rồi biến mất.
Thấm thoắt đã mấy năm ròng, mùa mưa ngâu tháng bảy đã tới. Mẹ chàng Cụt đeo gùi đi chợ ở xứ Yên Châu để mua sắm đồ về cúng giỗ và ăn tết rằm tháng bảy. Bà phải qua bao nhiêu đèo, bao nhiêu suối, bao nhiêu khúc sông mới đến được chợ. Hôm ấy, đi nửa đường trời mưa to kéo dài, bà đi đến khúc sông lớn thì không qua được. Tiếc công mò mẫm thắp đuốc đi chợ từ lúc nửa đêm, không nỡ quay về, bà đứng ở mé sông gọi to: “Cụt ơi! Au pè sống mè khảm tà pây chợ/ Se mè sắm sửa pẻng kin tết bươn đoi” (Cụt ơi! Lấy mảng đưa mẹ sang sông đi chợ/ Để mẹ sắm bánh ăn tết tháng ngâu”. Ở đâu, trong khoảnh khắc Cụt đã hiện về, thân mình to dài, khoang khoáy vằn đỏ, oằn mình vắt thân ngang dòng sông lớn nhẹ nhàng bảo: “Mẹ ơi! Thân con là cầu, mẹ bước trên sống lưng con mà sang sông tới chợ”. Cụt đưa mẹ đi chợ xong, lại đợi mẹ quay về rồi Cụt mới trở về biển khơi.
Mẹ Cụt đi chợ được một chuyến đó, ăn rằm tháng bảy xong đột ngột qua đời. Dân trong làng lo tế lễ cho bà một đêm. Đêm ấy, mưa to, sấm chớp thật dữ dội, rung chuyển cả trời đất. Người ta bảo: “Chắc chàng Cụt hiện lên thắp hương gọi hồn cho mẹ”. Nhưng chẳng ai nhìn thấy Cụt đâu mà chỉ thấy trời đất bỗng rung chuyển trong phút chốc lại trở lại yên lành. Sáng hôm sau, dân làng chôn cất bà góa cẩn thận ven bìa rừng, gần vũng nước sâu bên suối lớn chảy qua. Ba ngày, ba đêm kế tiếp, không biết ai đến khuôn những hòn đá đẹp xếp vòng quanh mộ bà góa, ngôi mộ to ra, cao lên, khum khum. Từ đó, đến nay, người Tày vùng Lục Yên Châu, nơi có ngôi mộ của bà goá, thường tổ chức làm bánh nẳng, để cúng tổ tiên, tập trung con cháu ăn tết rằm tháng bảy trước một ngày để phòng tránh trời mưa to bão lớn vào đúng ngày rằm tháng bảy.
Đúng bảy năm, bảy tháng, bảy ngày sau đêm bà góa chết, cả bàn dân thiên hạ lại thấy trời mưa to, dông bão, sấm chớp đùng đùng, cây cối nghiêng ngả, sông, suối nước dâng cao, đỏ ngầu cuồn cuộn chảy, xoáy sâu từng vũng thật ghê rợn. Dân làng lại kháo nhau rằng, chàng Cụt trườn ngược theo con nước lớn về nguồn, lấy thân mình quật nát các loài cây cỏ mọc quanh mộ mẹ sạch sẽ tinh tươm. Từ đó, hàng năm cứ khoảng tháng ba, không quá ngày 10 tháng 3 âm lịch trời lại có trận mưa giông thật to. Dân trong vùng Lục Yên Châu cứ truyền nhéu: “Trận mưa chàng Cụt hóa phép phum nước để tảo mộ mẹ và phum nước cho mảnh đất của xứ mường đã nuôi mình khôn lớn, cây cối mùa màng tươi tốt.
Ba năm sau khi bà goá chết, hết rằm tháng bảy, trời mưa dông lớn chưa từng thấy, dân làng bảo: chàng Cụt hóa phép cho trời mưa to, gió lớn để đỡ chàng quấn xới, bốc đá quanh mộ mẹ thành một vũng sâu xuống để lấy hài cốt mẹ về xuôi, đem ra biển lớn tiện bề chăm sóc. Bởi thế đến nay, người ta vẫn thấy ở gần vùng núi đá vôi thuộc xã An Phú, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái vẫn còn Bó Cao hay Cốc Nặm (mỏ nước) đùn lên ở một vũng trũng, nước từ trong lòng đất chảy mãi không cạn. Nước Bó Cao đổ ra sông Chảy, mỏ nước đó chính là dấu tích mồ mả bà goá bụa mẹ chàng Cụt. Người Tày Lục Yên Châu có câu ca: “Nhì ất đoi đí/ Nhì nhì đoi luông/ Nhì sam đoi pả/ Nhì sí đoi săng/ Nhì hả đoi pạp” (Hai muốt ngâu rong/ Hai hai ngâu tỏ/ Hai ba ngâu phá/ Hai tư ngâu tụ/ Hai lăm ngâu lìa). Cũng bởi từ sự tích này, từ đó đến nay, người Tày sống dọc sông Chảy vẫn truyền miệng nhau phải kiêng kị không cho con gái uống nước sông, nước suối vào những lúc trời mưa to, giông bão hoặc lúc trời xuất hiện cầu vồng để tránh đẻ ra trứng rắn, rồng, thuồng luồng như mẹ chàng Cụt.
oOo
Bài ca “Cùng Trái Tim”:
Chặp Căn Vằn Hội (Hội xuân gặp em):
Nét đẹp văn hóa của người Tày:
Trên Những Đường Tơ – Đàn tính 8 dây:
Lễ hội Quảng Uyên – Tày, Nùng:
Thăm bản người Tày – nghe điệu hát then:
Các làn điệu dân ca Tày vùng hồ Ba Bể:
Hát-Múa Dậm Thuông (dân tộc Tày):
Múa Dậm Thuông – dân tộc Tày:
Múa Đàn Tính – Dân Tộc Tày:
Múa chầu – Dân tộc Tày:
Dân ca Choang (Zhuang):
Hát Then, Tày- Choang (Zhuang), Quảng Tây, Trung Hoa:
Hát Then, Tày- Choang (Zhuang), Quảng Tây, Trung Hoa:
Múa truyền thống dân tộc Choang (Zhuang):
Múa dân tộc Choang (Zhuang):
Zhuang Children Song Zhuang’s Five Colors Rice:
Lễ cấp sắc của người Tày-Nùng:
Tết Thanh Minh Của Người Tày-Nùng: