Đánh giá về Những ngôi chùa cầu an dịp đầu năm mới 2020 ở Hà
Nội
Xem nhanh
Dành cho mọi người muốn tham quan du lịch Chùa Thầy ở Hà nội
Chùa Việt
Thứ sáu, 27/12/2019, 14:14
PM
Minh Chính
(Tổng Hợp)
Hà Nội với rất nhiều chùa có bề
dày nghìn năm lịch sử đã trở thành một điểm đến quen thuộc của mỗi
người con Phật vào dịp Tết xuân về. Phatgiao.org.vn xin phép giới
thiệu tới quý Phật tử một vài ngôi chùa ở Hà Nội có khả năng cầu
an, tìm kiếm sự thư thái trong lòng sau một năm vất vả bộn bề.
Chuỗi vòng may mắn của bạn, xem
ngay!.
>>Chùa Việt
1. Chùa Trấn Quốc
Chùa Trấn Quốc nằm trên một “hòn đảo” duy nhất nằm ở
phía Đông Hồ Tây thuộc quận Tây Hồ – Hà Nội.Phía trên cửa chùa có ghi ba chữ Phương tiện môn và câu
đối hai bên viết bằng chữ Nôm: Vang tai xe ngựa qua đường tục/Mở
mặt non sông đứng cửa thiền.Chùa Trấn Quốc được bao bọc bởi cây cối um tùm và mặt
nước Hồ Tây với những đợt sóng dâng cao bất ngờ. Các danh sĩ như
Nguyễn Huy Lượng, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Bà huyện Thanh
Quan…đã từng dạo quanh đây và để lại những tác phẩm tuyệt
vời.Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu
và nội thất có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của
Phật giáo. Gồm thường xuyên lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền
đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ
Công.Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương
và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông.
Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục
sảnh đường chính. Bên phải là nhà Tổ và bên trái là nhà
bia.Nội điện và nơi thờ cúng tại chùa Trấn Quốc: nhà Tổ
rộng 5 gian thì 3 gian chính dành để thờ các sư Tổ, còn 2 gian đầu
hồi thờ Mẫu; trên các ban thờ có đặt thường xuyên pho tượng sinh
động.Nội điện và nơi thờ cúng tại chùa Trấn Quốc: 3 gian
chính dành để thờ các sư Tổ, còn 2 gian đầu hồi thờ Mẫu; trên các
ban thờ có đặt nhiều pho tượng sinh động.Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia
khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu
sửa lại chùa sau một thời gian khá dài đổ nát. Công việc này bắt
đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815.Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và
Cảnh Hưng (thế kỷ 18). Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen
được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao
15m.Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một
pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng
(được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý.“Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh
ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng.
Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các
pháp”.Trải qua bao cuộc bể dâu, Trấn Quốc là một trong những
ngôi chùa thiêng liêng bậc nhất đối với Phật tử Việt Nam, là ngôi
chùa cổ nhất ở Hà Nội được nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn
hoá quốc gia ngay từ đợt đầu (1962).
Sách “La thành cổ tích vịnh” do tiến sĩ Trần Bá Lãm
soạn năm 1787 viết rằng: vào khoảng đời vua Trần Dụ Tông
(1341—1369) triều đình cho dựng một tòa sứ quán để tiếp sứ thần các
nước láng giềng Chiêm Thành, Vạn Tượng và Ai Lao. Triều ta vẫn theo
nề nếp ấy”. Từ đời Lê trung hưng về sau sứ thần có đến cống nạp
phương và nghỉ ngơi ở đây.Nhân thế gọi tên là chùa Quán Sứ. Chùa tọa lạc tại số
73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội.Chùa nằm trên con phố Quán Sứ.Chùa Quán Sứ – ‘điểm đến của nhiều thiền sư có tiếng
thời Lý’: Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ thiền sư Nguyễn Minh Không,
một vị thiền sư nổi tiếng thời Lý. Trong các tượng ở chùa, có một
pho rất đáng chú ý là tượng Hòa thượng Thích Thanh Tứ (1927-2011)
trong dáng ngồi niệm Phật có kích cỡ và hình dáng như người
thật.Năm 1942 sư Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt cho chùa xây dựng lại
theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn
Xuân Tùng, với nghệ thuật kiến trúc và trang trí kết hợp tinh hoa
từ các ngôi chùa lớn của miền Bắc. Mặt bằng các công trình tuân
theo truyền thống “nội Công ngoại Quốc”. Tam quan chùa có ba tầng
mái, ở giữa là lầu chuông. Một nét rất mới là ở đây tên chùa cũng
như thường xuyên câu đối đều đặn được viết bằng chữ quốc
ngữ.Đi qua cổng tam quan rồi qua sân trước là tới 11 bậc
thềm mới tới chính điện. Toà Tam bảo xây cao đặt ở trên tầng hai,
tầng dưới là để cách ẩm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các
pho tượng đều đặn có kích thước khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía
trong cùng, thờ tượng ba vị Phật Tam Thế trên bậc cao
nhất.Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có
các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa
thờ tượng Phật Thích-ca, hai bên là các tượng tôn giả A-nan-đà và
Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đặt giữa các
tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Vương.Gian bên phải chính điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư
Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông. Bốn
mặt xung quanh chùa Quán Sứ là những hàng hiên thoáng mát có các
cột vuông chống đỡ.Chùa là một quần thể kiến trúc khá độc đáo với sự kết
hợp hài hòa của các tầng mái và lầu chuông trong một khuôn viên
tương đối rộng rãi. Đây là nơi lưu trữ rất thường xuyên tài liệu,
thư tịch Phật giáo và là một trong số những trung tâm nghiên cứu,
giảng dạy, truyền bá Đạo Phật lớn nhất trong cả nước.Chùa Quán Sứ mới đây lại được trùng tu và nâng cấp, chủ
yếu ở khu vực giữa và phía sau. Các tòa nhà chính và nhà phụ đều
xây cao và rộng rãi, tường vẫn được quét vôi vàng như trước kia.
Toà hậu đường gồm có 3 tầng, tầng giữa nối với chính điện qua một
cầu thang lộ thiên.Chùa Quán Sứ có cả hội trường, giảng đường và thư viện
Phật giáo. Chùa đủ chỗ để đặt văn phòng Phân viện nghiên cứu Phật
học Việt Nam và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở
Việt Nam). Chùa cũng là nơi đặt văn phòng Hội đồng trị sự, văn
phòng Hội đồng chứng minh và phòng khách quốc tế.Các vị hòa thượng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng
trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng các vị thượng
tọa, đại đức, tăng ni của văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam đều làm việc ở chùa Quán Sứ. Các hội nghị Phật giáo ở cấp
quốc tế và quốc gia cũng thường được tổ chức tại đây.
3. Chùa Liên Phái
Nằm cuối con ngõ cùng tên ở phố Bạch Mai, phường Cầu
Dền, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, chùa Liên Phái là một
ngôi chùa có kiến trúc cổ với giá trị lịch sử đặc biệt của kinh
thành Thăng Long xưa.Công trình kiến trúc tiêu biểu của chùa Liên Phái là
tháp Diệu Quang nằm phía trước chùa. Tháp có hình lục lăng cao 10
tầng, quy mô tương đối lớn, được coi là kiến trúc quý hiếm vào bậc
nhất trong các ngôi chùa ở Hà Nội.Chùa được xây dựng bởi sự phát tâm của Trịnh Thập (cháu
nội Chúa Trịnh Căn và là con rể vua Lê Hy Tông) sau khi phát hiện
một ngó sen lúc đào đất ở gò cao sau phủ để xây bể
cạn.Chùa Liên Phái là số ít các chùa tại Hà Nội còn giữ
nguyên được dáng cổ. Chùa xây năm 1726, là tổ đình của Thiền phái
Liên Tông (dòng hoa sen) – một trong những phái thiền của Phật giáo
bản địa Việt Nam – xuất hiện cuối thời Hậu Lê.Tượng Hòa thượng Trịnh Thập tại chùa Liên
Phái.Từ nhà bia đi qua một khoảng sân rộng là khu chùa
chính. Tòa tam bảo có 5 gian, được dựng trên bộ khung bằng gỗ với
sáu vì kèo đỡ mái, được làm theo kiểu “chồng rường” và kiểu “quá
giang cột trốn”. Nét nổi bật trong tòa Tam bảo là những cửa võng
được sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ công phu, tỉ mỉ bằng kỹ
thuật chạm lộng, chạm thủng với các đề tài tứ linh, đan xen hoa lá
mang tính nghệ thuật cao.Ngoài hệ thống tượng Phật, chùa còn có tượng thiền sư
Thượng Sĩ Lân Giác – người sáng lập chùa. Cổ vật đáng chú ý là một
quả chuông có chữ “Liên Tông tục diện” (nghĩa là Liên Tông kế tục
sáng ngời) thời Lê Trung Hưng.Qua các thời kỳ lịch sử, chùa đã được tu bổ thường
xuyên lần, đợt tu bổ lớn nhất là vào năm Ất Mão 1855, dành 1000
quan tiền và 6 năm để sửa lại nhà Tổ, nhà tăng, tả hữu vu và tô
tượng Phật…
Từ cổng số 1 hoặc cổng số 2 trường Đại học Sư phạm Hà
Nội tại địa chỉ 136 đường Xuân Thuỷ, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu
Giấy, đi một quãng, đến gần sân vận động của trường, sẽ thấy cổng
chùa Thánh Chúa với tấm biển lớn bằng đá hoa cương: Bộ Văn hoá –
Chùa Thánh Chúa – Di tích lịch sử văn hoá đã xếp hạng. Ngôi chùa
này được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận di tích lịch sử – văn
hoá cấp quốc gia vào ngày 21-1-1989.Nơi đây còn lưu câu ca dao: “Ngàn năm nay có mấy chùa/
Có chùa Thánh Chúa hai vua tôn thờ”. Theo Đại Việt sử ký toàn thư
thì chùa đã có từ trước năm 1064, đã là nơi lui tới của hai vua
triều Lý và triều Lê. Chùa được xây dựng thời Lý, trước năm 1064,
tại làng Vòng, một làng cổ, nơi sản phát sinh cốm Vòng nổi tiếng.
Sau chùa trở thành di tích chung của hai phường Dịch Vọng và Mai
Dịch, quận Cầu Giấy.Ngày nay chùa có cảnh quang khang trang, thanh tịnh.
Tam quan xây hai tầng, tầng trên có 3 cửa tò vò treo chuông, khánh.
Chùa xây hình chữ Đinh, tiền đường 7 gian, đầu hồi bít đốc, bộ vì
nóc kiểu “chồng giường giá chiêng“. Trên kiến trúc trang trí các
hình rồng, phượng, hổ phù.Chùa thờ Phật với hệ thống tượng khá đa dạng (77 pho)
gồm cả tượng gỗ và tượng đất nung, trong đó có thường xuyên pho
tượng mang phong cách thế kỉ thứ 17. Các hiện vật gỗ sơn son thiếp
vàng, chạm trổ tinh tế. Điện Mẫu còn có một số pho tượng mang phong
cách nghệ thuật thế kỳ 19 có tổng giá trị cao. Trong chùa còn có đồ
thờ tự như hoành phi, câu đối, bia đá, chuông đồng phản ánh phong
cách nghệ thuật của các thế kỹ 17 – 20.
5. Chùa Bà Đá
Chùa Bà Đá là một ngôi chùa cổ nằm ở số 3 phố Nhà Thờ,
Hà Nội, gần hồ Hoàn Kiếm.Ngôi chùa được xây năm 1056 này còn có các tên: Linh
Quang tự, Sùng Khánh tự. Tuy chỉ là một ngôi chùa nhỏ nhưng nơi đây
có cảnh quan khá đẹp với nhiều bức tượng gỗ.hiện nay, chùa là trụ sở chính Thành hội Phật giáo Hà
Nội. Người dân Hà Nội thường đi lễ đầu năm ở chùa Bà Đá để cầu xin
phép may mắn và an lành cho bản thân và gia đình.
HỖ TRỢ CHÚNG TÔI
Tuân theo truyền thống Phật giáo, Chúng Tôi cung
cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. có khả năng duy trì
và mở rộng dự án của công ty chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự
hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của Chúng Tôi hữu ích, hãy cân
nhắc quyên góp một lần hoặc
hàng tháng.