Tưởng nhớ Rachel Carson – đợi chờ một Mùa Xuân không còn vắng lặng (phần 1)

Các bạn đang xem chủ đề về : “Tưởng nhớ Rachel Carson – đợi chờ một Mùa Xuân không còn vắng lặng (phần 1)”

Đánh giá về Tưởng nhớ Rachel Carson – đợi chờ một Mùa Xuân không còn vắng lặng (phần 1)


Xem nhanh
Khám Phá Bí Ẩn là kênh sát cánh cùng bạn khám phá mọi điều thú vị, bí ẩn trong cuộc sống khắp mọi nơi. Khám Phá Bí Ẩn có nhiều chủ đề hấp dẫn như: Thời sự, Chuyện lạ, Kinh dị, Ấn tượng, Trẻ em, Động vật, Người nổi tiếng, Thời trang, Ẩm thực, Thiên nhiên, Phong cảnh, Sự kiện, Chân dung, Đời thường,... Hãy đăng ký ngay hôm nay để không bỏ lỡ bất kỳ thông tin hấp dẫn nào và chia sẻ để mọi người cùng biết nhé!

https://www.youtube.com/channel/UCrf5GdIn8RK-NuunRkn7OXA(day la kenh moi cua minh cac ban nho bam dang ky ung ho kenh minh nhe)

Tại một hòn đảo ở Maine, có một ngôi nhà nằm trên tảng đá sát rìa biển hệt như tổ chim đại bàng. Bên dưới mái hiên sau nhà với lan can sơn trắng là một tảng đá trơn tuột, dốc xuống bãi triều thấp lổn nhổn những rong lươn và tảo gạc hươu. Những con ốc mỡ bám vào đá. Những con vẹm tự kẹp vào nhéu. Một con mòng biển đậu trên một tảng đá cỏ dại xù xì, tự rỉa lông và thoải mái nép mình, chống chọi với gió dữ dội đang băng qua mặt nước. Trong khi — trên vách đá — những cây vân sam, linh sam và bạch dương phủ đầy địa y, thở dài kẽo kẹt như những ông già vào một buổi bình minh ẩm ướt.

Ngồi bên chiếc bàn trong ngôi nhà ấy — một chiếc bàn gỗ thông chen vào góc phòng, nơi cánh cửa run rẩy theo từng cơn gió, như thể cầu xin để được mở ra, Rachel Carson viết: “Bờ biển là một lãnh địa cổ xưa”. Rất lâu trước khi Carson viết Mùa xuân vắng lặng — cuốn sách cuối cùng của bà — xuất bản năm 1962, bà đã là một nhà văn nổi tiếng: một nhà khoa học, nhà thơ của biển. Undersea (tạm dịch Dưới biển), bài tiểu luận đột phá của bà, xuất hiện trên tờ The Atlantic năm 1937. Bà băn khoăn: “Ai hiểu biết về biển cả? Không phải tôi, cũng chẳng phải bạn — với lượng tri thức giới hạn trên mặt đất — chúng ta đều không biết về bọt biển và cơn thủy triều dâng tràn qua chú cua đang ẩn mình dưới lớp rong; hoặc bài ca du dương của những cơn sóng dài, chậm rãi giữa đại dương, nơi đàn cá lang thang đi săn và bị săn, nơi những chú cá heo phá sóng để hít thở bầu không khí trên cao.” Đoạn văn mang cho người đọc cảm giác ngây ra ngất, chìm đắm trong cơn sóng thuật ngữ, mớ hỗn độn đầy nước của loài nhuyễn thể, mang cá, giun ống, nhím biển, sinh vật phù du, đẫm nước muối, không cuống, hình cây, thăm thẳm, có gai, phóng xạ, ánh bạc và lân tinh, trong khi đây đó, “những con tôm hùm len lỏi mình trong ánh hoàng hôn bất diệt, với sự cẩn trọng tinh ranh.”

Mùa xuân vắng lặng không phải là một tác phẩm tầm thường: nó phát động phong trào vì môi trường; đẩy nhanh việc thông qua Đạo luật Không khí sạch (1963), Đạo luật Hoang dã (1964), Chính sách Môi trường Quốc gia (1969), Đạo luật Nước sạch và Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng (1972); dẫn đến việc thành lập Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) vào năm 1970. Trên thế giới, số lượng sách đạt được những thành tựu trên có thể đếm được trên đầu chi của loài sao biển. mặc khác, số sách còn lại của Carson và hầu như tất cả tiểu luận của bà đều đặn liên quan đến đại dương. Việc Carson được tưởng nhớ vì một cuốn sách nói đến hiểm họa của thuốc trừ sâu thông dụng DDT hẳn sẽ khiến bà ngạc nhiên trong những năm tuổi trẻ, khi bà còn là một nhà thống kê sinh vật biển tại Cục Thủy sản Hoa Kỳ, viết ghi chú về cá-trích-mình-dày, thống kê mũi cá voi với chuyên ngành cao học về cá chình Mỹ.

Carson rất tự hào về Mùa xuân vắng lặng. Mặc dù vậy, thật đau lòng khi thấy tuyển tập vừa ra mắt Mùa xuân vắng lặng và những bài viết khác về môi trường do Sandra Steingraber (Thư viện Hoa Kỳ) biên soạn, không bao gồm bài viết nào của bà về biển cả. Steingraber phàn nàn rằng, “dù những cuốn sách về biển của Carson đôi khi ám chỉ đến các mối đe dọa môi trường, chúng không huy động một hành động cụ thể nào cả”. Và vì vậy, chúng bị gạt sang một bên. tác động chính trị là thước đo kỳ lạ để đánh giá tổng giá trị của một tác phẩm văn xuôi, khi sức mạnh của nó nằm ở kiến thức và xúc cảm kinh ngạc. Trong cuốn sách đầu tiên của mình, Under the Sea-Wind (1941) (tạm dịch Dưới làn gió biển), Carson đã viết, “Đứng ở rìa biển, cảm nhận sự lên xuống của thủy triều, cảm nhận hơi thở của làn sương mù di chuyển trên đầm lầy muối lớn, xem những con chim vút nhénh lên xuống những ngọn sóng đã vỗ vào các lục địa trong hàng ngàn năm, xem những con lươn già và những con cá trích non lao ra biển, là để biết về những điều gần như vĩnh cửu như bất kì dạng sống nào trên trái đất.” Bà không thể viết Mùa xuân vắng lặng nếu trong thường xuyên thập kỷ, bà không trèo xuống những tảng đá, xắn ống quần và lội xuống hồ thủy triều, suy nghĩ về tác động đổi thay giữa các sự vật, và làm thế nào, “sau hàng thiên niên kỷ, biển ngày càng mặn chát hơn do muối từ các lục địa.” Bà thích nhất đi ra ngoài vào ban đêm, với một chiếc đèn pin, xuyên qua bóng tối đặc quánh.

*

Tất cả các sinh vật đều được tạo ra từ biển, như Carson đã chỉ ra. Bà gọi đó là “người mẹ vĩ đại của sự sống”. Ngay cả các loài động vật có vú trên cạn, với bộ xương cứng như vôi và dòng máu mặn, cũng bắt đầu từ những bào thai bơi trong đại dương. Bản thân bà không biết bơi. Bà không thích thuyền. Trong suốt thời thơ ấu, bà chưa bao giờ ngửi thấy mùi của đại dương. “Tôi đã từng tưởng tượng biển trông như thế nào và tiếng sóng thì sẽ ra sao”.

Carson sinh năm 1907 ở phía tây Pennsylvania, gần sông Allegheny, trong một ngôi nhà gỗ hai tầng ở trang trại rộng sáu mươi bốn mẫu Anh với một vườn lê táo, một sân sau nuôi lợn, ngựa, gà và cừu, một nơi có lẽ không khác lắm với những mô tả trong đoạn mở đầu Mùa xuân vắng lặng:

Đã từng có một thị trấn ở trung tâm nước Mỹ, nơi mọi loài dường như sống hài hòa với môi trường xung quanh. Thị trấn nằm giữa những trang trại trù phú, với những cánh đồng trĩu hạt và những sườn đồi của vườn cây ăn trái, nơi vào mùa xuân, từng đám hoa trắng lững lờ trên những cánh đồng xanh. Vào mùa thu, cây sồi, cây phong và cây bạch dương thắp nên một ngọn lửa rực rỡ sắc màu trên phông nền của những cây thông. Sau đó, cáo sủa trên đồi, nai lặng lẽ băng qua cánh đồng, nửa giấu mình trong màn sương của những sớm mùa thu.

Là con út trong gia đình có ba người con, bà đã trải qua thời thơ ấu lang thang trên cánh đồng và những ngọn đồi. Mẹ bà đã dạy bà tên của các loài động thực vật. Bà đã đọc The Wind in the Willows (Gió qua rặng liễu) và những tác phẩm của Beatrix Potter. Ở tuổi lên tám, bà viết một câu chuyện về hai chú chim hồng tước tìm kiếm một ngôi nhà. “Tôi không thể nhớ nổi, ngay cả khi còn nhỏ, có lúc nào tôi không cho rằng mình sẽ trở thành một nhà văn,” bà nói. “Tôi không biết tại sao.” Những câu chuyện bà viết ở thời niên thiếu đã ghi lại những gì bà khám phá: “tổ của chim cút-mào chen chúc những trứng, tổ chim vàng anh trông như cái nôi lơ lửng trên không, tổ chim cúc cu là bộ khung với những cây gậy, và ngôi nhà phủ đầy địa y của chim ruồi.”

Và sau đó, khói bụi ngành công nghiệp than đá ở Pittsburgh đã xâm chiếm thời thơ ấu của Carson, khi cha bà bắt đầu bán dần từng tấc đất trong trang trại gia đình. Đồng cỏ biến thành cửa hàng. Đó không phải là tai họa đến từ thuốc trừ sâu, nhưng với Carson, đó là sự mất mát cho phép bà viết rõ ràng trong phần mở đầu của Mùa xuân vắng lặng, về số phận của một thị trấn Mỹ giả tưởng bị phun DDT:

Thế rồi, những triệu chứng lạ xuất hiện và mọi thứ bắt đầu thay đổi. Lời nguyền quái ác giáng xuống cộng đồng: những căn bệnh bí ẩn quét sạch đàn gà; bầy gia súc ốm dần rồi chết. Khắp nơi đều là hình bóng của thần chết. Những người nông dân nói về nhiều bệnh tật trong gia đình họ. Trong thị trấn, các bác sĩ ngày càng bối rối trước những loại bệnh tật mới xuất hiện ở các bệnh nhân. Đã có những cái chết đột ngột và không rõ tác nhân. không những người lớn mà ngay cả trẻ con cũng bị tấn công đột ngột khi đang chơi, rồi sau đó vài giờ thì chết.

Carson rời nhà đến Trường Cao đẳng nữ Pennsylvania để học ngành ngôn ngữ Anh. Bà từng gửi những bài thơ cho các tạp chí – Poetry, The Atlantic, Good Housekeeping, The Saturday Evening Post – và có một bộ sưu tập thư từ chối từ họ. Mẹ bà đã bán táo, gà, đồ sứ gia đình để giúp trả học phí và thường đi từ nông trại đến trường ĐH mỗi cuối tuần để đánh máy hồ sơ cho con gái mình (sau này bà cũng đánh máy sách của Carson), đặc biệt là vì — giống như thường xuyên bà mẹ khác — bản thân bà cũng khao khát được học.

Carson, bạn bè vẫn gọi là Ray, đã dự buổi dạ hội của trường vào năm 1928, nhưng chưa từng biểu lộ hứng thú với đàn ông. tuy nhiên, bà vô cùng say mê giáo sư sinh học của mình, Mary Scott Skinker. Bà đổi chuyên ngành và theo chân Skinker đến Woods Hole trong một dự án nghiên cứu mùa hè. Cuối cùng, bà đã nhìn thấy đại dương. Bà lùng sục trên bờ biển hàng giờ liên tục, lạc vào một thế giới mới, bị mê hoặc bởi từng sinh vật. Vào ban đêm, bà chăm chú nhìn xuống vùng nước ngoài bến tàu để xem sự kết đôi của những con giun nhiều tơ, với những sợi lông lấp lánh ánh trăng.

Carson hoàn thành bằng thạc sĩ động vật học tại Đại học Johns Hopkins và bắt đầu chương trình Tiến sĩ năm 1932. Cả gia đình chuyển đến Baltimore để sống cùng bà: mẹ bà, người cha ốm yếu, chị gái đã ly hôn và hai cô cháu gái còn rất nhỏ. Carson, người làm công ăn lương duy nhất của gia đình, đã làm trợ lý phòng thí nghiệm và giảng dạy sinh học – động vật học tại Johns Hopkins tương đương Đại học Maryland. Khi cuộc Đại Khủng Hoảng (cuộc suy thoái kinh tế 1929 – cuối những năm 1930) ngày càng nghiêm trọng, có thời gian họ phải sống dựa trên những quả táo. Cuối cùng, Carson phải rời trường cao học để nhận một công việc được trả lương cao hơn, trong bộ phận giáo dục cộng đồng của Cục Thủy sản Hoa Kỳ. Bà kiếm thêm tiền bằng cách viết báo cho tờ Baltimore Sun. Người viết tiểu sử của bà, Linda Lear, viết một cách nặng nề, rằng một bài báo của bà viết về trang trại nuôi hàu, trong lúc đó “ba bài khác tiếp tục thống kê về cá-trích-mình-dày.”

Cha của Carson qua đời năm 1935. Sau đó hai năm chị bà cũng mất, để lại cho Carson một người mẹ và hai cô cháu gái cần phải chăm nom. Sau đó bà đã nhận nuôi cháu trai của mình, khi cậu bé mồ côi năm bốn tuổi. Những nghĩa vụ này đôi khi khiến Carson nản lòng, nhưng người viết tiểu sử của bà thất vọng gấp đôi. Đối với Lear, tác giả của Rachel Carson: Witness for Nature (tạm dịch Rachel Carson: Chứng nhân của thiên nhiên, 1997) và biên tập viên của tuyển tập Lost Woods: The Discovered Writing of Rachel Carson (tạm dịch Khu rừng đã mất: Những ghi chép được khám phá của Rachel Carson, 1998), nghĩa vụ gia đình — chi tiết là những đứa trẻ — không gì hơn là những gánh nặng “cướp đi sự riêng tư và vắt kiệt năng lượng thể xác lẫn tinh thần.” Lear nói điều này một cách chung chung, như một cách giải thích tại sao Carson không viết nhiều hơn và tại sao ngoại trừ các bài báo cho tờ Sun, Carson chưa bao giờ nộp bản thảo đúng hạn. Nhưng quan tâm đến người khác đem lại những hiểu biết riêng. Carson nhận ra thế giới đẹp đẽ, hoang dại, bản năng và dễ bị tổn thương, mỗi bộ phận gắn liền với nhau không thể tách rời, không chỉ thông qua những nghiên cứu khoa học phi thường mà còn bằng cả đời chăm sóc người già và trẻ nhỏ, lau vầng trán người hấp hối, dỗ các cô bé mồ côi mẹ đi ngủ, hâm nóng bữa tối cho cậu nhóc cô đơn. “Gia đình” thấm đẫm trong những hiểu biết của Carson về thiên nhiên. “Động thực vật hoang dã đang suy yếu vì ngôi nhà của chúng đang bị phá hoại”, bà viết vào năm 1938, “nhưng nhà của các loài hoang dã cũng là nhà của chúng ta.” Nếu bà có ít ràng buộc gia đình hơn, bà hẳn sẽ có ít sự thấu suốt hơn.

-Còn tiếp-

ichigo lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jill Lepore, đăng tại The New Yorker.



Bài viết liên quan