Văn Hóa Truyền Thống Nhật Bản – Tour Nhật Bản – Du Lịch Nhật Bản

Các bạn đang xem chủ đề về : “Văn Hóa Truyền Thống Nhật Bản – Tour Nhật Bản – Du Lịch Nhật Bản”

Đánh giá về Văn Hóa Truyền Thống Nhật Bản – Tour Nhật Bản – Du Lịch Nhật Bản


Xem nhanh

Do tác động của lịch sử và vị trí địa lý, Nhật Bản là một trong số ít những quốc gia thuộc Châu Á rất phát triển về lĩnh vực thể dục thể thao. Bên cạnh môn thể thao truyền thống Sumo, Kendo, Judo,… Nhật Bản còn là nơi quy tụ của hàng loạt các môn thể thao đến từ phương Tây như bóng chày, quần vợt hay golf,…

Trong quá khứ Nhật Bản là một đất nước cô lập, tách biệt với thế giới nhưng khi thời kỳ mở cửa đến vào cuối thế kỷ 19 quốc gia này đã nhénh chóng du nhập một số môn thể thao mới. Đáng ngạc nhiên là, thường xuyên người vẫn xem đây là những môn thể thao hàng đầu trong nước cho đến ngày nay.

1. Bóng chày

Bóng chày hay còn gọi là “dã cầu” là một môn thể thao đồng đội; trong đó một cầu thủ của đội này (cầu thủ giao bóng) sẽ nỗ lực ném banh (kích thước vừa nắm ở tay) thật mạnh về phía cầu thủ của đội kia, và người này sẽ cố gắng đánh bật trái bóng chày bằng một cây gậy đánh bóng chày, trước khi nó được tóm gọn lại bởi đồng đội của anh đứng sau cầu thủ đội bạn (cầu thủ bắt bóng). Một đội chỉ ghi điểm khi đánh xong, chạy vượt qua 4 điểm mốc gọi là căn cứ (base) đặt ở 4 góc của hình vuông. Mỗi căn cứ cách nhéu 90 bộ.

Sự thu hút của bóng chày là ở sự tinh tế của nó: tình huống phòng thủ, vị trí ném bóng, thứ tự ném, thống kê, sân chơi, lịch sử, và cá tính của cầu thủ. Với những người hâm mộ cuồng nhiệt, trò chơi – ngay cả những thời điểm diễn ra chậm nhất – vẫn không bao giờ chán vì những sắc thái này.

Đối với người Nhật, bóng chày rất thường nhật, đến mức người ta gọi nó là môn thể thao quốc gia. Bóng chày xuất Hiện tại Nhật Bản lần đầu tiên vào năm 1872 bởi một thầy giáo người Mỹ giảng dạy tại một học viện của Nhật, từ đó đến nay môn thể thao này ngày càng phát triển và phổ biến khắp Nhật Bản. Theo một vài nghiên cứu, Hiện tại có đến 7,5 triệu người Nhật Bản chơi bóng chày, còn số người thường xuyên xem các trận đấu bóng chày hàng năm lên đến 25 triệu người. Ở Nhật, bóng chày được coi là một môn học và được áp dụng giảng dạy ngay từ cấp tiểu học. Các giải đấu ở đủ cấp độ diễn ra hàng năm, từ cấp độ trường học đến chuyên nghiệp. Hầu hết ở các công viên ở Nhật đều có sân tập bóng chày, đặc biệt là không chỉ có các chàng trai mà cả người già và các cô gái cũng nhiều tập luyện môn thể thao này.

Các giải đấu bóng chày cũng được tổ chức nhiều ở khắp nơi trên cả nước từ cấp trung học cho tới cấp đại học. hầu như tất cả mọi người đều đặn thể hiện sự ủng hộ tuyệt đối dành cho đội bóng đại diện cho tỉnh của họ khi được tham gia các giải vô địch khắp cả nước. Tại Tokyo, sân vận động Tokyo Dome (sân vận động nổi tiếng nhất Nhật Bản) nằm trong khuôn viên của địa điểm tham quan thành phố, đây là nơi được ưa thích nhất để xem thi đấu. Người Nhật cổ vũ cho đội bóng chày mà họ yêu thích bằng cách dùng kèn, trống và các nhạc cụ tạo âm thanh sôi động khác.

Người Nhật yêu bóng chày, đến mức nhưng bộ Manga với đề tài bóng chày cũng được ủng hộ rất nhiệt tình, không lạ khi các bộ truyện tranh bóng chày huyền thoại như Captain, Touch, Maijo… từng làm chao đảo thị trường Manga Nhật Bản trong một thời gian khá dài trước đây.

Ở Nhật Bản, người ta thường nói đùa với nhau rằng nếu không biết chơi bóng chày thì sẽ khó tìm được bạn gái, nếu bạn là một tay chơi bóng chày giỏi thì sẽ có rất thường xuyên cô gái điên đảo vì bạn … Có lẽ chỉ cần qua những lời nói đùa như thế thôi chúng ta cũng có thể thấy bóng chày được người Nhật Bản hâm mộ như thế nào rồi!

2. Bóng đá

Từng có một môn thể thao “bóng đá” cổ đại được gọi là “Cuju” phát triển ở Trung Quốc và lan sang Hàn Quốc tương đương Nhật Bản và được đổi tên thành “Kemari”. Thế kỷ 19, bóng đá hiện đại (bóng đá thế giới) được giới thiệu bởi Trung Úy Archibald Lucius Douglas thuộc Hải quân Hoàng gia Anh, người đã dạy nó cho các sĩ quan hải quân Nhật Bản từ năm 1873 đến năm 1879.

Trong khi các hiệp hội bóng đá được tổ chức trong những năm 1920, thì cho đến năm 1930 mới có một đội tuyển quốc gia. Và năm 1936, Nhật Bản đã ra mắt tại Thế vận hội Olympic Berlin, và có chiến thắng đầu tiên 3-2 trước Thụy Điển. Trước chiến tranh thế giới II, môn thể thao này thường được gọi là “Shukyu” (蹴 球, nghĩa đen là “kick-ball”), sau đó được gọi là “soccer” (hoặc Sakkaa) do ảnh hưởng của Mỹ sau chiến tranh.

Giải vô địch quốc gia tổ chức lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1965, bao gồm 8 câu lạc bộ nghiệp dư. Đồng thời, tại Thế vận hội Olympic Mexico 1968 đã gia tăng sự nổi tiếng của môn thể thao, nhưng nó vẫn bán chuyên nghiệp cho đến năm 1992, khi Liên đoàn Bóng đá chuyên nghiệp Nhật Bản, thường được gọi là J.League, được thành lập, gồm chín đội từ Nhật bán chuyên nghiệp Soccer League và Shimizu S-Pulse mới thành lập.

Hiện có 18 câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Nhật Bản. một vài cầu thủ ngôi sao đã xuất hiện từ J.League, bao gồm cả Kazuyoshi Miura, Hidetoshi Nakamura và Shunsuke Nakamura, trong đó một vài cầu thủ chủ chốt chơi cho các câu lạc bộ bóng đá trên toàn thế giới như Makoto Hasebe và Keisuke Honda. Đội tuyển quốc gia nam được biết đến với cái tên Samurai Blue.

Trong khi bóng đá nữ ít phổ biến hơn ở các giải đấu quốc gia, thì đội bóng đá nữ của Nhật Bản, được gọi là Nadeshiko Japan, đã thu hút được một làn sóng chú ý sau khi giành chiến thắng ở Mỹ tại Chung kết Cúp bóng đá nữ thế giới năm 2011.

3. Quần vợt (Tennis)

Người ta tin rằng quần vợt lần đầu tiên đến Nhật Bản vào năm 1878, khi năm tòa án được xây dựng tại công viên Yamate của Yokohama cho người nước ngoài. Trong cùng năm đó, George A. Leland được mời đến giới thiệu môn thể dục ở phương Tây tại Nhật Bản, và người ta tin rằng chính điều đó đã khiến cho môn quần vợt được dạy rộng rãi trên toàn quốc. tuy nhiên, chi phí mua vật liệu cho quả bóng tiêu chuẩn đã dẫn tới sự phát triển của “quần vợt mềm”, dùng quả bóng cao su mềm. Đến năm 1886, quần vợt mềm là hình thức tiêu chuẩn của môn thể thao được chơi ở Nhật Bản, và nó vẫn được dạy trong các trường công lập trên cả nước cho đến ngày nay.

Quần vợt đã có một vị trí nổi bật trong văn hoá Nhật Bản. Nó được nhắc đến trong lần Nhật Bản giành huy chương Olympic đầu tiên của mình, được tuyên bố bởi Ichiya Kumagai tại Thế vận hội Antwerp năm 1920. Hoàng đế Nhật Bản Akihito gặp Hoàng hậu Michiko trong một sân tennis ở thị trấn nghỉ mát Karuizawa năm 1957. Tập truyện Prince of Tennis đã bán được hơn 50.000.000 bản. Và kể từ khi trở thành tay vợt nam duy nhất của Nhật Bản từng được xếp hạng trong top 10 quần vợt đơn, từ năm 2015 Kei Nishikori đã đưa đến sự phổ biến của môn thể thao này.

4. Sumo

Sumo là một cách thức đấu vật tiếp xúc lẫn nhau mang tính cạnh tranh trong đó một “Rikishi” (đô vật) cố gắng đẩy đối thủ của mình ra khỏi vòng tròn thi đấu (Dohyō) hoặc ép đối thủ chạm mặt đất bằng bất kỳ bộ phận cơ thể nào ngoài lòng bàn chân (thường bằng cách ném, đẩy hoặc ép đối thủ xuống đất).

Ở Nhật Bản, Sumo được tôn sùng và coi đó là tôn giáo, là bản sắc dân tộc. và cạnh đó Sumo cũng là một môn thể thao, võ thuật và nghệ thuật. Sumo có nguồn gốc từ Nhật Bản, và đã được biết đến từ thời cổ đại. Vật Sumo bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo Shinto, là một nghi lễ cầu xin phép thần linh phù hộ cho một mùa màng bội thu. Đến thời Nara (thế kỷ thứ 8) môn đấu vật Sumo được đưa vào các lễ hội của Hoàng Gia và từ đó dần dần phát triển để trở thành một môn thể thao như ngày nay.

Mỗi năm, tại “xứ Phù Tang” có 6 giải đấu Sumo trong cả nước, mỗi lần kéo dài 15 ngày. Các đô vật hạng thấp hơn tham gia trận đấu vào ngày đầu, và sau đó các võ sĩ sumo hạng cao hơn sẽ đấu với nhéu. Hai đô vật hạng nhất, thường là một Yokozuna và / hoặc Ozeki (thứ hạng cao nhất và thứ hai cao nhất cho các đô vật Sumo) cạnh tranh cuối cùng để đóng giải đấu. Yokozuna là một hạng đấu rất uy tín, và một trong số đó đã thực sự được tổ chức duy nhất bởi các đô vật không phải là người Nhật từ năm 2000, với thường xuyên vận động viên đáng kinh ngạc đến từ Mông Cổ.

5. Kendo

Nhắc đến Nhật Bản hẳn chúng ta sẽ liên tưởng tới những Samurai hay thậm chí là những Ninja với những hình tượng và câu chuyện đã đi vào lịch sử và được chuyển thể tương đương xuất hiện trên những tác phẩm truyện tranh, điện ảnh, nhưng mấy ai biết đến bộ môn Kendo. Trong tiếng Nhật, “Ken” có nghĩa là “kiếm”, “Do” có nghĩa là “đạo”; “Kendo” là “kiếm đạo” hay “Đạo dùng kiếm”. Đây là một môn võ thuật đánh kiếm hiện đại của Nhật Bản kế thừa và phát triển từ các kỹ thuật truyền thống của kiếm sĩ Nhật Bản (Samurai).

Kendo hiện đại đòi hỏi rất cao về thể chất cũng như tinh thần. Vì là một môn khá dễ gây thương tích nặng nên khi thi đấu dụng cụ bảo vệ rất quan trọng. Võ phục Kendo là bộ trang phục truyền thống của Nhật Bản, bộ giáp bảo vệ cơ thể, mũ trùm đầu bằng kim loại có che mặt và cổ. Kendo là sự kết hợp hoàn hảo giữa kiếm đạo và thể thao, nó không những là một môn thể thao bình thường mà còn là bộ môn giúp phát triển nhãn quan phong phú về đời sống, là một nét đẹp của kiếm đạo và nhân phẩm người kiếm sĩ.

Kendo được hình thành từ cuối thời kỳ Meiji tức là vào khoảng thế kỷ 19, nhằm tập luyện cho các chiến binh Samurai. Sau cách mạng Meiji năm 1868, tầng lớp Samurai bị xóa bỏ, Thiên hoàng ban hành lệnh cấm đeo kiếm đã khiến cho Kendo suy tàn nhanh chóng. mặc khác, sau cuộc kháng cự không thành của các Samurai đã đem lại sự phục hồi cho Kendo trong lực lượng cảnh sát thủ đô. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Kendo được khôi phục và được coi là môn thể thao chính thức vào năm 1946.

Từ năm 1975, mục đích của Kendo được đề ra bởi Liên đoàn Kendo Nhật Bản là để “trui rèn nhân cách con người thông qua đường kiếm”. tuy nhiên, Kendo kết hợp các tổng giá trị võ thuật với các yếu tố thể thao, có người luyện tập ưa thích phần võ thuật cũng có người chuộng phần thể thao. Liên đoàn Kendo quốc tế (The International Kendo Federation – FIK) được thành lập vào năm 1970 và giải Vô địch Kendo Thế giới được tổ chức 3 năm một lần và lần đầu tiên tại Nippon Budokan trong cùng năm đó. Vào tháng 7 năm 2003, giải Vô địch Kendo Thế giới lần thứ 12 được tổ chức tại Glasgow, Scotland. Những người tập Kendo đến từ 41 quốc gia và các vùng lãnh thổ khác nhau.

Hiện tại, Kendo đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục trong trường học và là môn thể thao được rất nhiều người ở mọi lứa tuổi yêu thích và tập luyện thường xuyên.

6. Judo

Judo là môn thể thao thú vị, một nghệ thuật, một kỷ luật, một vận hành giải trí, xã hội, một chương trình thể dục, một phương thuận tiện tự vệ, chiến đấu, và một cách sống… và nhiều hơn thế nữa.

Judo vốn có thường xuyên trường phái khác nhau nhưng Japanese Kodokan Judo. Kodokan Judo xuất phát từ hệ thống chiến đấu của nền phong kiến Nhật Bản. Ra đời vào năm 1882, do Tiến sĩ Jigoro Kano sáng lập. Judo là một sự tinh tế của nghệ thuật võ cổ Jujutsu.

Judo hiện đại dùng kỹ thuật Nage-waza và Osaekomi-waza, Shime-waza, Kansetsu-waza trong thi đấu. Môn võ này nổi tiếng với kỹ thuật ném tuyệt đẹp, ngoài ra còn các kỹ thuật khác như: vật lộn trên mặt đất với kỹ thuật chân điêu, kiểm soát nắm giữ bằng khóa tay, kỹ thuật nghẹt thở. Nhưng trên hết, các kỹ thuật của môn võ này luôn nhấn mạnh tính an toàn và thoái mái cho người học. Vì vậy, nó phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp trong xã hội, cả người tàn tật cũng có khả năng học và thực hành được.

Judo được đưa vào Thế vận hội năm 1964 và ngày nay nó được hàng triệu người khắp nơi trên thế giới luyện tập. Người ta luyện tập Judo không những vì muốn đem lại chiến thắng trong thi đấu, hay sự tự tin… mà hầu hết tất cả mọi người đều đặn cảm thấy thoải mái và vui vẻ khi luyện tập môn võ này.

7. Karate 

Tên gọi “Karate” (hay: Karate-Do) là một trong những bộ môn võ thuật truyền thống và nổi tiếng của người Nhật. Môn võ truyền thống này xuất phát từ vùng Okinawa với đặc trưng là các đòn đấm, đá, các thuật đánh cùi chỏ, đầu gối, đánh bàn tay mở,… để hạ gục đối thủ.

Theo những nguyên cứu chỉ ra rằng bộ môn võ thuật này có nguồn gốc từ người Trung Quốc (Phúc Kiến), trong quá trình di cư theo con đường thương mại, họ đã mang bộ môn võ thuật này đến và truyền bá tại Nhật Bản. Trong thời kỳ chiến tranh chống giới cai trị ác độc Nhật Bản, người Nhật đã kết hợp môn võ này với các điệu múa dân gian truyền thống vùng Okinawa của mình để tạo ra những chiêu thức chiến đấu riêng.

Karate chính thức được công nhận là võ thuật vào năm 1933. Thời điểm đó Karate được biết đến rộng rãi là nhờ sự chấp thuận của Hội Võ thuật Nhật Bản (sau này là tổ chức phi chính phủ) – với mục tiêu khuyến khích học tập võ thuật Nhật Bản. Đại hội Karate đầu tiên được tổ chức vào năm 1957 bởi Hiệp hội Tuyển thủ Katate Nhật Bản và được đăng cai bởi Hiệp hội Karate Nhật Bản.

Tại Nhật Bản rất nhiều cha mẹ cho con mình đi học Karate từ nhỏ để phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. Karate không đơn giản chỉ là võ thuật mà nó còn là con đường rèn luyện cơ thể và trí tuệ. Karate không những là sức mạnh chiến thắng đối phương mà còn là ca ngợi tinh thần chiến đấu của đối phương.

8. Aikido 

Aikido hay “Hiệp khí đạo” là môn võ hiện đại của Nhật được sáng tạo bởi bậc thầy võ thuật Nhật Bản Ueshiba, trên cơ sở các môn võ cổ truyền như Nhu thuật (Jujitsu), Kiếm thuật (Kenjutsu) và Thương thuật (Sojutsu).

Aikido không chỉ là tổng hòa tinh túy của thường xuyên môn võ thuật mà còn thể hiện tinh thần hòa hợp vũ trụ, triết lý hòa bình của người sáng lập ra nó. Tên gọi Aikido được ghép bởi ba chữ: Ai – hòa hợp, hài hòa, yêu thương; ki – khí, tinh thần và do – đạo, con đường đi. Như vậy, có thể coi Aikido là môn võ chỉ ra con đường giúp võ sinh hòa hợp với vũ trụ.

Trong Aikido tương đương hầu hết các môn võ “xứ sở Phù Tang”, luyện tập thể chất và rèn luyện tinh thần luôn song hành. Người tập Aikido phải học cách đánh ngã, khóa đối thủ một cách an toàn nhất cho cả hai bên. Các động tác uyển chuyển, hài hòa, dẻo dai, kết hợp với sức mạnh mang lại thường xuyên lợi ích cho người tập.

Về mặt tinh thần, người tập võ Aikivì phải nhớ rõ tính “bất tương tranh” của môn võ. Hầu hết các môn võ đều đặn tìm kiếm tuyệt chiêu hạ gục đối phương, nhưng Aikido lại cho rằng chiến thắng nào cũng chỉ là tương đối. Một người giỏi hôm nay chưa chắc đã là người giỏi ngày mai. Người chiến thắng lại thường có nhiều tính xấu như chủ quan, tự mãn…

Aikido không tập trung vào việc thắng người mà chủ yếu tập trung vào lợi ích rèn luyện sức khỏe, không đề cao sự huy hoàng của chiến thắng mà đề cao sự hài hòa của con người và vũ trụ, thể hiện triết lý sống cao đẹp của người Nhật Bản.

9. Kyudo

“Kyudo” trong tiếng Nhật có nghĩa là “Cung Đạo”, môn thể thao dùng cung làm vũ khí và dùng kỹ thuật bắn sao cho trúng mục tiêu phía trước. Về nguồn gốc hình thành bộ môn này thì theo ghi chép trong sách cổ, Cung Đạo đã xuất hiện từ thời kỳ Yayoi (khoảng từ năm 500 TCN – năm 300 SCN). Con người khi ấy sử dụng cây cung làm bằng gỗ, hình dạng ngắn từ đáy và dài từ đầu.

Đến thời phong kiến, đặc biệt trong các cuộc chiến tranh, kỹ năng bắn cung càng được các chiến binh Samurai chú trọng khi nó có thể tấn công địch từ khoảng cách xa. mong muốn tăng lên, dẫn đến số lượng các trường bắn cung mở cửa cũng tăng lên đáng kể. Tầm quan trọng của cung đạo bắt đầu Giảm khi người Bồ Đào nhé đến Nhật Bản và giới thiệu loại vũ khí mới tiện lợi hơn: Súng cầm tay.

Không muốn môn võ thuật truyền thống này bị thoái trào, một nhóm người đã tập hợp lại với hy vọng làm khôi phục và vực dậy nét văn hóa này. Cuối cùng đến năm 1949, Liên đoàn Cung đạo Nhật Bản được thành lập, biến Cung đạo trở thành môn thể thao chính thức có quy củ và hệ thống như bây giờ.

Khác với những môn thể thao chú trọng vào thể lực, kỹ năng như bóng đá, bóng chày, tennis…, Cung đạo không chỉ thể lực mà còn rèn luyện tinh thần cho người tập. Với những người mới bắt đầu thì họ sẽ trải qua một khoảng thời gian ngắn để rèn luyện tinh thần, học các lễ nghi cơ bản trong Cung đạo như cách đi, đứng, ngồi, chào, trước khi tập cầm cung. Sau khi đã nắm rõ các nghi thức này thì người tập đến giai đoạn học kỹ thuật bắn mang tên Hassetsu – Bắn cung tám bước. Tám bước này sẽ bao gồm từ lúc chuẩn bị tư thế đứng cho đến khi kết thúc bắn.

Cũng giống như các môn thể thao khác, Kyudo cũng rất được ưa chuộng tại Nhật Bản hiện nay. Hàng năm, người Nhật luôn tổ chức cuộc thi bắn cung dành riêng cho phái yếu để họ được dịp thi thố tài nghệ của mình. Cuộc thi mang tên “Toshiya”, diễn ra ở đền Sanjusangendo ở Kyoto. Các cô gái sẽ mặc Kimono hoặc Yukata để tham gia với mục tiêu là bắn vào tâm vòng tròn trong khoảng cách 60m. Ngoài cuộc thi Toshiya thì ở Nhật còn có Yabusame – lễ hội bắn cung lớn nhất mùa thu tổ chức tại đền Menji Jingu, Shibuya, Tokyo vào ngày 23/11. Điểm đặc biệt của lễ hội này là cung thủ sẽ ngồi trên lưng ngựa, vừa cưỡi vừa bắn. Đây là một trong những kỹ năng chiến đấu quan trọng của samurai thời chiến tranh. Tham gia lễ hội này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng màn thi đấu của các cung thủ trên lưng ngựa.

10. Golf

Golf được du nhập từ phương Tây sau thời phục hưng meiji (1868-1912). Một người nước ngoài tên là Arthur Hesketh Groom đã sống ở Kobe trong 33 năm, và chán nản vì không được chơi môn thể thao yêu thích của mình. Vì vậy, anh và bạn bè của mình đã đặt ra một sân gôn 4 lỗ trên núi Rokko. Khóa học đầu tiên vào năm 1901, sau đó được mở rộng vào năm 1903 đến chín lỗ và trở thành Câu lạc bộ golf Kobe.

Golf vẫn chỉ là một môn thể thao dành cho người nước ngoài và người Nhật học ở phương Tây một thời gian. Việc mở một khóa học tại Tokyo vào năm 1914 đã giới thiệu nó với các thành viên của tầng lớp thượng lưu truyền thống của Nhật Bản, với sự quan tâm nhanh chóng đã mở rộng sự tham gia vào 71 khóa học được mở ra khắp cả nước vào năm 1940.

Khi hệ thống tầng lớp xã hội Nhật bị gián đoạn sau Chiến tranh thế giới II, ngày càng có thường xuyên thành viên của tầng lớp trung lưu mới bắt đầu chơi golf, tạo ra làn sóng người chơi mới. Golf là một cơ hội mới để tiến hành buôn bán và là dấu hiệu cho thấy sự đi lên cho đến khi sụp đổ của bong bóng kinh tế vào đầu những năm 1990.

Ngày nay, golf không hạn chế tuổi tác hay nam hay nữ. Các tay golf Nhật Bản nổi tiếng hiện nay hầu hết đều khá trẻ, bao gồm Ryo Ishikawa, người đã nổi tiếng ở tuổi 15, cũng như Hideki Matsuyama và nữ golf thủ Ai Miyazato.

11. Đua xe tự động

Đua xe tự động đã tồn tại ở Nhật Bản từ những năm 1920, nhưng chỉ đến khi Đường đua Tamagawa được khai trương vào năm 1936 thì môn thể thao này mới được phổ biến.

Soichiro Honda là một trong số những đối thủ đầu tiên trên đường đua này. Sau khi thành lập Doanh nghiệp của mình, Honda tiếp tục mở Suzuka International Racing Course, được biết đến với cái tên Suzuka Circut, vào năm 1962. một vài sự kiện vô địch thế giới lớn đã tổ chức trên đường đua này, đáng chú ý nhất là Formula One. Không thể để thua kém, Mitsubishi đã mở một đường đua Fuji Speedway, vào đầu những năm 1960 (nay thuộc sở hữu của Toyota). gần như tất cả các cuộc đua lớn nhất ở Nhật đã diễn ra ở một trong hai đường đua này-mặc dù có hơn 20 đường đua xe tự động trên toàn Nhật Bản.

12. Trượt băng nghệ thuật

Trượt băng nghệ thuật cũng là một môn thể thao được yêu thích tại Nhật Bản. Hơn nữa, rất nhiều các vận động viên trượt băng nổi tiếng trên toàn thế giới với những giải thưởng danh giá đều xuất thân từ Nhật Bản. Điều này không chỉ khiến vô số người hâm mộ môn thể thao này vui mừng, hạnh phúc mà còn làm biết bao người con của xứ sở này được tự hào. Cũng chính vì điều này, số lượng Fan của bộ môn trượt băng nghệ thuật này ngày càng thường xuyên, hầu hết tại các trận đấu, ghế của khán giả đều đặn luôn trong tình trạng không còn chỗ trống.

Sự gia tăng lượng người hâm mộ chính là động lực thúc đẩy giúp các vận động viên ngày một hăng say và cố gắng tiến bộ. Có rất thường xuyên vận động viên trượt băng nghệ thuật Nhật Bản đã đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp, chẳng hạn như vận động viên Shizuka Arakawa đã đạt được huy chương vàng trong Olympic 2006, Torino, Miki Ando, ​​Mio Asada, Daisuke Takahashi và Yuzuru Hanyu đã giành huy chương vàng trong Thế vận hội thể thao. Một điểm thú vị đó là phần lớn Fan của bộ môn thể thao này đều đặn là phái yếu.

Thể thao đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của người Nhật Hiện tại. Qua bài viết, hi vọng giúp du khách biết thường xuyên hơn về những môn thể thao được người Nhật yêu thích và những nét văn hóa truyền thống của “xứ sở hoa anh đào”. Nếu du khách muốn khám phá thường xuyên hơn, hãy thực hiện ngay một chuyến du lịch Nhật Bản nhé!

Hoa anh đào là một biểu tượng cho đất nước Nhật Bản với những cánh hoa mỏng manh rực rỡ giữa mùa xuân. Loài hoa thanh khiết này trở thành loại hoa quý và được người dân nơi đây coi trọng, tổ chức một lễ hội riêng trong năm để dành thời gian ngắm trọn vẻ đẹp của những bông hoa này, đó là Lễ hội Hanami.

Hanami được diễn ra vào tháng 3 đến tháng 5 hàng năm. Đây là khoảng thời gian hoa anh đào nở rộ khắp đường phố Nhật Bản, mang lại một khung cảnh yên bình, lãng mạn và những trải nghiệm khó quên cho mọi người.

Hanami (花見) là từ ghép giữa hai từ “Hana” (花) và “Mi” (見), trong đó “Hana” có nghĩa là “hoa” (hoa anh đào hoặc hoa mơ), “Mi” có nghĩa là “xem, ngắm nhìn”. “Hanami” có nghĩa là “ngắm nhìn, thưởng lãm hoa anh đào”, và được gọi là “hội hoa anh đào”. Đây là tập quán thưởng thức vẻ đẹp của hoa anh đào, chúc mừng nhéu và cảm nhận không khí mùa xuân của người Nhật.

Lễ hội Hanami có lịch sử lâu đời trải qua hàng nghìn năm này. Lễ hội này bắt nguồn từ thời Nara khi những quân thần mang những cành hoa anh đào mới nở rực rỡ nhất dâng tặng Thiên Hoàng. Sau đó đến đến thời Heian, hoa anh đào đã trở nên nổi tiếng hơn khi xuất hiện rất nhiều trong thi ca Nhật Bản, là loài hoa tiêu biểu trong chùm thơ Haiku nổi tiếng. Vào thời vị trí này, Nhật Hoàng đã tổ chức các bữa tiệc rượu ngắm hoa anh đào để kết thúc một vụ mùa gieo trồng. Và đến thời Edo thì lễ hội Hanami đã nhanh chóng lan rộng với cả giới đạo sĩ và dân thường. Hàng loạt cây hoa anh đào được lệnh trồng lên đáp ứng cho những bữa tiệc thưởng hoa được hoàng tộc đặc biệt yêu thích.

Tục ngắm hoa cùng lễ hội truyền thống này đã được người Nhật lưu giữ, truyền nối cho đến tận bây giờ. Lễ hội này thường được tổ chức ở khuc vực miền Nam nước Nhật trước, và khi miền Bắc trở nên ấm hơn thì người ta bắt đầu chuẩn bị cho lễ hội. Cho nên, cứ mỗi độ xuân về, khi hoa anh đào nở kín trời khiến không gian trở nên tươi sáng bừng tỉnh sau những ngày đông ảm đạm, mọi người lại chọn cho mình những địa điểm trồng nhiều hoa anh đào như công viên, dọc bờ sông để tổ chức picnic, ngắm hoa, trò chuyện, ca hát cả ngày lẫn đêm. Tại một vị trí đẹp, họ trải thảm, bày biện những món ăn tự chuẩn bị ở nhà và thế là có một buổi picnic ngắn ngày cùng gia đình, bạn bè cực kỳ thú vị.

Vừa thưởng lãm hoa anh đào, vừa thưởng thức những món ăn truyền thống của Nhật Bản thì còn gi tuyệt vời bằng! một trong số những món ăn thường có trong Lễ hội Hanami là Sushi, cơm hộp Bento, bánh Sakura Mochi… Và đặc biệt, Hanami sẽ không được trọn vẹn nếu thiếu rượu Hanamizake, đây là thức uống được yêu thích của người dân Nhật. ngoài ra, trong thời gian diễn ra Lễ hội Hanami, du khách sẽ dễ dàng bắt gặp những món ăn đường phố như: Dango Hanami, Takoyaki, mì lạnh hoa anh đào,… và cạnh đó, việc thưởng thức trà ngon dưới tán cây hoa anh đào cũng là vận hành rất được yêu thích ở lễ hội Hanami. Trà vốn là một trong những đặc sản của “xứ sở hoa anh đào”, vậy nên thưởng thức tiệc trà ở lễ hội hoa anh đào cũng là một trải nghiệm thú vị không nên bỏ qua.

Vào thời vị trí này, du khách dễ dàng bắt gặp hình ảnh các võ sĩ Sumo hay những người phụ nữ Nhật trong trang phục Kimono truyền thống.

Dạo bộ trên những con đường rợp bóng hoa anh đào sẽ mang lại cho du khách cảm giác thư thái pha chút lãng mạn trong tiết trời còn se lạnh không khí đầu xuân. Những cánh hoa mỏng manh nhẹ nhàng khoe sắc, nghiêng mình đu đưa theo gió rất đỗi nên thơ khiến lòng người bỗng xuyến xang.

mặt khác, du khách cũng có khả năng ngồi trên những con thuyền du ngoạn trên những con sông thanh bình hai bên bờ phủ kín hoa anh đào. Thiên nhiên sông nước cùng gió và hoa sẽ xua tan bao mỏi mệt ngày thường cùng những bận rộn tan biến mất, chỉ còn lại không gian của sắc màu tươi đẹp tràn đầy hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

Hoa anh đào không chỉ lung linh vào ban ngày lại càng trở nên lộng lẫy và kiêu sa hơn dưới ánh đèn lấp lánh vào ban đêm. Người ta gọi đây là “lễ hội hoa anh đào đêm”.

Đến với Lễ hội Hanami, du khách sẽ được hòa mình vào cảnh sắc cũng như thư giãn, tận hưởng hương sắc mùa xuân Nhật Bản một cách trọn vẹn nhất. Còn chần chừ gì mà không du lịch Nhật Bản vào tháng 3 và tham gia lễ hội Hanami cùng người dân nơi đây? Hòa mình vào không khí mùa xuân của Lễ hội Hanami chắc chắn sẽ là một trải nghiệm thú vị dành cho du khách ở “xứ sở hoa anh đào”.

Nhắc đến Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến một đất nước có nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc. Hàng năm, tại “xứ sở mặt trời mọc” có hàng trăm lễ hội lớn nhỏ diễn ra, mỗi sự kiện đều đặn mang nét đặc trưng rất riêng. một trong số những lễ hội thu hút đông người tham gia và được mong chờ nhất trong năm đó là Lễ hội khỏa thân “Hadaka Matsuri”.

Hadaka Matsuri xuất phát từ một nghi thức có từ 500 năm trước trong thời kỳ Muromachi (1338-1573), được diễn ra tại đền Saidaiji, thành phố Okayama, phía tây Nhật Bản. Lễ hội này được tổ chức vào ngày thứ 7 tuần thứ ba của tháng 2 hàng năm. Trong lễ hội này, dân làng sẽ tranh nhau giành lấy lá bùa giấy, được một thiền sư tại đền Saidaiji Kannonin đưa ra. Ngày càng thường xuyên người dân muốn có được lá bùa may mắn đó và lễ hội cứ thế phát triển.

Lễ hội Hadaka mang ý nghĩa cầu mong một vụ mùa bội thu, tôn vinh văn hóa sinh sản. Một phần của lễ hội được tổ chức dành riêng cho các bé trai, với hi vọng truyền thống sẽ được tiếp nối trong tương lai. Lễ hội này còn tượng trưng cho sức mạnh, tinh thần quả cảm, ý chí chiến đấu kiến cường của con người và đất nước Nhật Bản, thể hiện sức sống của những nét văn hóa truyền thống của một quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới.

Trước đây, Hadaka Matsuri được diễn ra vào đúng nửa đêm nhưng kể từ năm 2010 trở đi, người ta tiến hành tổ chức lễ hội sớm hơn 2 tiếng để những người đến tham dự có khả năng dùng phương thuận tiện công cộng về nhà.

Đúng như tên gọi của lễ hội, những người tham gia (phải là nam giới) sẽ cởi bỏ trang phục trên người mà chỉ có sử dụng 1 chiếc khố trắng (người Nhật gọi là Fundoshi) để che đi nửa dưới của mình và đi một đôi tất trắng đặc biệt giống như giấy được gọi là Tabi. không chỉ “dị thường” trong trang phục mà một điểm khác khiến lễ hội này trở nên khác biệt đó là với “trang phục” khiêm tốn trên người, những đáng mày râu phải trải qua cái lạnh dưới 10 độ C của mùa đông Nhật Bản. Điều này chắc chắn không phải ai cũng có khả năng trải qua được. Khắc nghiệt là thế, nhưng hàng năm, Hadaka Matsuri cũng thu hút tới gần 10.000 nam giới tham gia.

Theo truyền thống, vào buổi tối, những người tham gia sẽ dành khoảng một hoặc hai giờ chạy quanh khuôn viên ngôi đền, thanh lọc cơ thể bằng việc ngâm mình trong bể nước lạnh cóng và uống Sake để làm nóng cơ thể tương đương tinh thần của mình, trước khi chen chúc vào ngôi đền chính. Họ sẽ lấp đầy những chỗ trống trước khung cửa sổ cao 4m nơi nhà sư sẽ tung ra hai cây gậy may mắn. Theo truyền thống Nhật Bản, người nào có cơ hội bắt được cây gậy thần, bỏ vào chiếc hộp gỗ Masu chứa đầy gạo thì anh ta sẽ được may mắn và hạnh phúc trong 12 tháng tới.

Đúng 10 giờ tối, ánh sáng được Giảm hẳn nhưng không khí náo động vẫn lan tỏa, một nhà sư ném 100 bó cành cây và 2 cây gậy gỗ Shinghi (mỗi gậy gỗ dài 20cm, đường kính 4cm) vào đám đông từ một cửa sổ cao hơn 4m. Trước đây, nhà sư thả lá bùa bằng giấy để cầu chúc cho ai may mắn bắt được, nhưng giấy vốn mỏng manh và dễ bị rách khiến người ta quyết định đổi thành một vật bền chắc hơn là những cây gậy.

Lúc này, sự “náo loạn” bắt đầu. Cả đám đông đồng thanh hô to “Wasshoi! Wasshoi” trong khi cố gắng nuôi hi vọng giành được cây gậy may mắn. Chỉ hai người may mắn sẽ chụp lấy được “tấm bùa” của cả năm và nếu có ai giành được nó, những người xung quanh sẽ cố chạm vào người anh ta để hưởng chút may mắn đang lan tỏa.

Toàn bộ sự kiện kéo dài khoảng 30 phút. Sau khi đã tìm được chủ nhân của hai chiếc gậy, mọi người lần lượt trở về trong trật tự. Mặc dù có không ít người tham gia bị vài vết bầm tím, vết cắt, thậm chí bong gân vì chen lấn, tranh giành nhưng gần như không có xô xát bởi người Nhật vốn rất lịch sự và hiền hòa. Kết thúc sự kiện, họ sẽ uống ly rượu Sake nóng được chuẩn bị sẵn ở cổng đền để làm ấm cơ thể.

Mặc dù ở cái lạnh khắc nghiệt, có những thời điểm còn ở dưới 0 độ C, thế nhưng, trong không khí hỗn loạn, chen chúc nhéu để tìm kiếm may mắn mà dường như những người tham gia dường như không hề cảm thấy nhận cái lạnh buốt da buốt thịt này. Một điều khác nữa mà không thể không nhắc tới khi nói về lễ hội này là có một người đàn ông khỏa thân ẩn nấp trong đám đông. Người này được xem là có khả năng lấy đi những điều xấu xa và tội lỗi của những người đàn ông khác nên ngoài việc tìm kiếm cây gậy gỗ kia, người ta còn muốn tìm cho ra người đàn ông huyền bí và cố gắng chạm vào anh ta để thoát khỏi những điều xấu xa nhất.

Hadaka Matsuri luôn thu hút một lượng lớn người tham gia. Không cần phải là người địa phương, khách du lịch nước ngoài cũng được tham gia nếu đăng ký trước với ban tổ chức và mua một chiếc khố.

Nếu có dịp đến với đất nước Nhật Bản trong những ngày này, du khách đừng bỏ qua lễ hội Hadaka nhé! Book Tour Nhật Bản và hòa mình vào không khí của lễ hội chắc chắn sẽ là một trải nghiệm thú vị dành cho du khách.

Trong văn hoá dân gian Nhật Bản có nhiều vị thần ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của người dân, trong đó có Thất Phúc Thần – 7 vị thần may mắn của người Nhật. Họ thường được nhắc đến trong ngày tết O-shogatsu (Chính nguyệt) – một trong những ngày lễ quan trọng của năm, thường được tổ chức vào mùa xuân.

Thất Phúc Thần được xem là sự pha trộn giữa một vị thần Ebisu của Nhật Bản và các vị thần có nguồn gốc từ Ấn Độ giáo của Ấn Độ và Phật giáo của Trung Quốc. Trong tiếng Nhật, họ được gọi là “Shichifukujin”, sự kết hợp của “thất”, “phúc”, và “thần”.

Thất Phúc Thần được cho là xuất hiện sau thời Chiến quốc (Sengoku jidai, bắt đầu từ giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 16) để thể hiện mong ước thái bình của dân chúng. Theo người Nhật, các vị thần tiên này sẽ xuống trần vào đêm giao thừa và ở lại trong 3 ngày đầu năm mới. Người ta thường mô tả Thất Phúc Thần cùng đi trên một chiếc thuyền chất đầy châu báu gọi là “Takarabune” (Bửu thuyền – thuyền chở của quý). Thất Phúc Thần sẽ ghé thăm các khu làng vào dịp Tết đến và phát quà cho những người xứng đáng. Trẻ con thì được nhận lì xì có trang trí hình chiếc thuyền Takarabune. vì vậy, để mang lại điều tốt lành, người lớn thường tặng cho trẻ em những bức tranh vẽ hoặc phong bao lì xì có hình bảy vị thần ngồi trên thuyền.

ngoài ra, trong văn hóa Nhật Bản cũng xuất hiện những những vật mang ý nghĩa phúc lành dựa trên câu chuyện về Thất Phúc Thần, đó là: Chìa khóa nhà kho của các vị thần, Chiếc mũ tàng hình, Ví đầy ắp tiền, Búa của thần Daikoku, Áo mưa rơm bảo vệ người mặc khỏi linh hồn ma quỷ, Ngọc quý, Bao tải và hộp đựng tiền vàng, Cuộn vải thổ cẩm, Đồng xu.

Thất Phúc Thần cũng được xem là các vị thần gần gũi với tầng lớp nhân dân, vì thế họ thường gắn liền với những thứ quen thuộc với đời sống như lúa, gạo, cá… Tương truyền, lần lượt 7 vị phúc thần này bao gồm:

Daikokuten (Đại Hắc Thiên) là hiện thân của thần Mahākāla (hay còn gọi là thần Shiva) ở Ấn Độ. Đây là vị thần của sự giàu có, đại diện cho nông nghiệp và vụ mùa bội thu. Ông là vị thần đứng đầu trong Thất Phúc Thần. Trong quan niệm của người Nhật, Daokokuten được xem như “Ông Táo”, cai quản ở bếp. Daikokuten có nước da ngăm đen, miệng lúc nào cũng mỉm cười, thường chít khăn vải trên đầu, đứng hoặc ngồi trên hai bao gạo, tay phải mang vồ nhỏ bằng gỗ có thể ban điều ước, trên vai mang một túi báu vật.

Bishamonten (Tỳ Sa Môn Thiên) cũng là vị thần có nguồn gốc từ Đa Văn Thiên Vương trong Ấn Độ giáo. Ông là thần tài kiêm thần chiến tranh. Ông thường mang lại điềm may trong chiến loạn tương đương trong thời thái bình. Thần thường giúp giữ gìn của cải cho người xứng đáng. Thần Bishamonten mặc áo giáp, tay cầm vũ khí và một ngọn tháp thu nhỏ. Đây là ngọn tháp của cải mà ông đi ban phát cho con người.

Hotei (Bố Đại) bắt nguồn từ một Thiền tang thời Hậu Lương, tên Khế Tỷ. Ông có dung mạo phúc đức, thân hình to béo, trên tay cầm một cây quạt lông, trên vai mang đãy gạo không bao giờ cạn. Đặc biệt, miệng của vị thần này lúc nào cũng tươi cười, vì thế mà thần còn có biệt danh là “Ông Phật cười”. Thần Hotei là vị thần của hạnh phúc và của cải dồi dào, là hóa thân của Di lặc Bồ Tát trong Phật giáo. Đây là vị thần duy nhất dựa trên một nhân vật lịch sử – một nhà sư Trung Quốc sống vào đầu thế kỷ thứ 10.

Fukurokuju (Phúc Lộc Thọ) là vị thần của trí tuệ, hạnh phúc, phú quý và trường thọ. Vị thần này xuất hiện với chòm râu dài, vầng trán cao và mặc trang phục Trung Hoa xưa. Biểu tượng của thần có nai, rùa và hạc.

Jurojin (Thọ Lão Nhân): Vị thần có xuất xứ Trung Hoa, được cho là sống vào thời Tống. Ông là vị thần xuất hiện với bộ râu tóc trắng, tay chống trượng, tay ôm trái đào. Đây là vị thần đem lại sự trường thọ. Thần Jurojin đại diện cho sự trường thọ, trí tuệ và sức khỏe.

Benzaiten (Biện Tài Thiên) – vị nữ thần duy nhất trong Thất Phúc Thần, đại diện cho sự thông thái, nghệ thuật và cái đẹp. Thần thường ngồi hoặc đứng trên lá sen, hoặc cưỡi bạch long, rắn biển, rắn thường và xuất hiện với cây tì bà Nhật Bản trên tay. Thần Benzaiten thường được các nghệ nhân, ca sĩ và những quán ăn thờ cúng.

Ebisu (Huệ Bỉ Tu): đây là vị thần đặc biệt nhất trong Thất Phúc Thần và nhận được sự yêu quý của nhiều người Nhật, bởi đây là vị thần bản địa. Thần Ebisu là con đầu lòng của 2 vị thần khai nảy sinh Nhật Bản: Izanagi và Izanami. Thần Ebisu vốn là thần bảo hộ biển cả được ngư dân thờ phụng. Sau đó, thần Ebisu dần dần trở thành vị thần thương nghiệp phù hộ buôn bán. Người dân cúng bái thần Ebisu với mong muốn được làm ăn phát đạt. Thần Ebisu có khuôn mặt hiền hậu, nụ cười rạng rỡ, tay trái cầm một con cá, tay còn lại cầm cần câu cá và đội một cái mũ có chóp nhọn. Ebisu cũng là vị thần của đức tính trung thực.

Mặc dù là các vị thần trong văn hóa dân gian, nhưng Thất Phúc Thần còn có trong văn hóa nghệ thuật. Điển hình như nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ kích cỡ nhỏ Netsuke. Các tác phẩm điêu khắc thu nhỏ hình của các vị thần được chạm khắc trên gỗ và được xem là Enigimono không thể thiếu những dịp đầu năm mới trong các gia đình Nhật Bản.

ngoài ra, Thất Phúc Thần cũng phổ biến trong các bài hát, tranh vẽ và nhà hát dân gian Nhật Bản. Ngày nay, giấy dán và hình ảnh của các vị thần vẫn vô cùng phổ biến, người ta chọn mua về để đem lại may mắn cho gia đình. Trong các cửa hàng và nhà hàng, người ta thường trưng tượng của một hoặc tất cả Thất Phúc Thần để việc làm ăn may mắn thuận lợi.

Hàng năm, vào những ngày đầu năm mới, người Nhật lại thực hiện việc hành hương đến đền của 7 vị thần. Trước đây mọi người xe đi bộ đến các ngôi đền, nhưng Hiện tại các phương tiện giao thông khác được sử dụng để rút ngắn thời gian. Trong lúc viếng đền, người ta hay mua một cuốn sách đặc biệt gọi là “Kinen Shikishi” để sưu tầm các dấu mộc Shuin của từng ngôi đền mà mình đã đi qua. Có thường xuyên cách để đi nhưng không cần thiết đi như thế nào, miễn là viếng đủ các ngôi đền thờ từng vị thần trong Thất Phúc Thần là được.

Đất nước, văn hoá và con người “xứ Phù Tang” còn có thường xuyên nét thú vị đang chờ đón du khách đến khám phá và trải nghiệm. Vậy còn chần chờ gì nữa mà không thực hiện ngay một chuyến du lịch Nhật Bản?

Nhật Bản là một trong số những quốc gia trên thế giới có rất thường xuyên tôn giáo vậy nên các tín ngưỡng, phong tục tập quán cũng có những nét riêng. tuy nhiên, tôn giáo bản địa của người Nhật là Thần đạo. Đây là một tín ngưỡng đặc biệt, đó không chỉ là một tôn giáo với những tín đồ riêng, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nên văn hóa truyền thống của “xứ Phù Tang”.

Thần đạo là tôn giáo chính của Nhật Bản. Mặc dù tại Nhật Bản có rất nhiều các tôn giáo khác nhéu nhưng Thần đạo được xem là đạo gốc của người dân “xứ Phù Tang”. Theo Nhật Bản Thư Kỷ (Nihongi) ghi chép lại, Phật giáo được truyền vào Nhật Bản năm 552 và phát triển cực kỳ mạnh mẽ. mặc khác, Phật giáo đã giao thoa với Thần đạo và được gọi chung là “Thần đạo Shinto”.

Thần đạo có nghĩa là “con đường của Thần” (Kami no michi), tức là các linh hồn hay vị thần hiện diện ở khắp mọi nơi, có nguồn gốc từ quan niệm vật linh của người Nhật cổ. Thần đạo không hẳn là một tôn giáo theo đúng nghĩa của nó mà là sự tích hợp những tín ngưỡng và nghi lễ thờ cúng các vị thần Kami.

Kami bao gồm các vật linh thiêng trong thiên nhiên (mặt trời, mặt trăng, gió, mưa, sấm sét, núi, sông, đá đá, cây cối, chim muông,…) và hồn người chết (tổ tiên Nhật Hoàng, tổ tiên của gia đình, những anh hùng có công với nước). Kami chính là những linh hồn thiêng là những “vị thần” trong Thần đạo. Nam thần Izanagi và nữ thần Izanami được cho là Kami nổi tiếng nhất của Thần đạo. Truyền thuyết kể lại rằng, vị thần đầu tiên là Izanagi đã dùng ngọn giáo thần khuấy động đại dương, sau khi rút giáo lên, nước biển nhỏ xuống tạo thành một hòn đảo. Izanagi và vợ mình là nữ thần Izanami đã dựng một lâu đài và phát sinh 8 hòn đảo mới, gộp thành phần lớn nước Nhật ngày nay. Từ đó, người dân đã lập nên rất nhiều đền thờ trên khắp đất nước, các đền thờ tương ứng với những vị thần có quyền năng khác nhau. Đi cùng với đó là những lễ hội như một hình thức người Nhật dâng lên các đấng linh thiêng sự thành kính và lời nguyện cầu của họ.

Thần đạo xuất hiện từ xa xưa nhưng phát triển rất chậm và hầu như không có tên gọi vào thời kỳ đầu. Sau này, với sự xâm nhập của Phật giáo và Nho giáo, Thần đạo mới được đặt tên để phân biệt. mặc khác, với tầm ảnh hưởng sâu rộng của Phật giáo, Thần đạo gần như bị lấn át, có thời kỳ còn bị hợp nhất với Phật giáo. Mãi đến thời Minh Trị (khoảng năm 1868), Thần đạo mới được tách riêng và được xem như là quốc giáo của Nhật Bản.

So với những tôn giáo khác, Thần đạo không có đấng tối cao, thay vào đó là rất nhiều vị thần. Người ta cũng không biết ai là người đã khai sinh ra Thần đạo, chỉ biết rằng nó đã có từ rất xa xưa và gắn với linh hồn của văn hóa Nhật Bản.

Thần đạo cũng không có kinh thư hay kinh thánh, không có các điều răn và không có điều luật để tín đồ phải tuân theo. Nó chỉ có những câu cầu nguyện, những câu khấn cổ là Norito (hay Norii), đã được truyền miệng từ hàng thế kỷ trước. Mặc dù không có những câu giáo điều, những điều buộc người theo đạo phải trung thành làm theo nhưng Thần đạo đem đến những tổng giá trị, chuẩn mực và cách nghĩ mà dần dần thấm sâu vào cuộc sống của người Nhật. Một nhà học giả Nhật viết: “Chính là vì người Nhật thực sự đạo đức trong việc thực hành nên họ không cần đến lý thuyết đạo đức”.

Bên cạnh đó, Thần đạo cũng không có bất kỳ một nghi lễ nào cho tín đồ thực hành để được xem là đã chính thức gia nhập. Gần như cũng không có ai rao giảng hay thuyết phục người khác theo Thần đạo. Người ta sinh ra và lớn lên cùng với nó, như một truyền thống trong gia đình và tự ý thức rèn luyện để sao cho bản thân mình có lối sống theo đúng tinh thần của Thần đạo, mà nhìn theo một cách nào đó, cũng chính là tinh thần Nhật Bản.

Người theo Thần đạo không bao giờ quan tâm đến khái niệm kiếp sau. Họ cầu nguyện về những thứ rõ ràng như cầu nguyện cho được mùa, thực phẩm, hạnh phúc, lợi ích của quốc gia và bày tỏ lời cảm ơn.

Tín đồ Thần đạo không dùng hình ảnh của các thần mà dùng biểu tượng của các thần. Trên những bàn thờ thần có những bài vị hay những mảnh giấy ghi tên những vị thần mà họ muốn tôn kính. Một ngọn đèn được đốt lên và nếu có khả năng gia đình đặt hoa cùng một chút rượu vang hay bánh cốm hàng ngày. Những người Thần đạo thường duy trì nghi lễ cầu nguyện ngắn trước bàn thờ thần mỗi ngày.

Thần đạo đề cao sự sạch sẽ và thanh tẩy. Những nơi đặt các ngôi đền thờ Thần đạo thường có dòng nước chảy qua, như sông hay suối. Người Nhật theo Thần đạo cũng không lại gần nơi thờ cúng ở nhà hay nơi công cộng mà lại không tẩy uế trước. chính vì vậy, trước mỗi ngôi đền của Thần đạo, mọi người sẽ bắt gặp các máng nước để người đi lễ có thể dùng để rửa tay và xúc miệng. Chỉ sau khi làm cho chính mình trong sạch, người ta mới nghĩ mình đáng được hành lễ tại đền.

Đền thờ Thần đạo gọi là “Thần xã”. Phía ngoài đền thờ có cổng Torii bằng gỗ, thường được sơn màu đỏ son hoặc đỏ cam. Các Thần xã thường được xây trên đồi núi, từ dưới leo lên đến nơi rất mỏi chân và mệt, nhưng đó là cách để tỏ lòng thành kính. Đặc biệt, Thần xã Itsukushima nổi tiếng nằm trên nước được xem là di sản văn hóa quốc gia và được công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Theo truyền thuyết, nữ thần Mặt Trời Amaterasu vì giận dỗi em trai mình đã trốn vào hang núi và không tỏa sáng nữa. Người dân Nhật đã dựng lên một cái sào bằng gỗ, để cho tất cả gà trống đậu lên đó và gáy ầm ĩ. Vì quá tò mò, nữ thần đã hé mắt nhìn qua hang động ánh sáng của mặt trời xuyên qua kẽ hang và người ta tìm thấy chỗ bà ẩn nấp. Cây sào trong câu chuyện chính là phiên bản đầu tiên của Torii, trong tiếng Nhật có nghĩa là nơi chim đậu, hay còn gọi là cổng “điểu cư”. Cấu trúc cơ bản của Torii gồm 2 cột thẳng đứng, 2 thanh ngang đóng sát nhéu ở trên đỉnh, phía dưới nữa là một thanh ngang, Torii thường được sơn màu đỏ son. Theo truyền thống, Torii được dựng từ gỗ hay đá nhưng Hiện tại người ta bắt đầu dung các loại vật liệu khác như thép và thậm chí là thép không gỉ. Theo thần đạo Nhật Bản, bước qua cánh cửa này nghĩa là bước từ chốn trần gian vào nơi linh thiêng. Cổng Torii càng gần chính điện lại càng thêm phần thiêng liêng. Vì tin vào sự linh thiêng của cánh cổng thiền, rất nhiều người thường xuyên bỏ tiền hiến tặng cổng cho đền, chùa. Ngôi đền Fushimi Inari có cả một dãy hành lang bằng cổng Torii xếp liền vào nhau. Mỗi cánh cổng đều có ghi tên người hiến tặng.

Các đền thờ Thần đạo là nơi thờ tự và là nhà của các Kami. Hầu hết các đền thờ tổ chức lễ hội (Matsuri) thường xuyên để cho các Kami có thể nhìn thấy thế giới bên ngoài. Các thần chủ Thần đạo thực hiện các nghi lễ và thường sống trong khuôn viên của đền thờ. Đàn ông và phụ nữ có khả năng trở thành thần chủ, và họ được phép đám cưới và sinh con. Các thần chủ được các vu nữ (Miko) hỗ trợ trong các nghi lễ và nhiệm vụ tại đền thờ. Miko mặc Kimono trắng, phải chưa lập gia đình và thường là con gái của các thần chủ.

Vì Thần đạo mang bản chất Nhật và không ép buộc người ngoại đạo tham gia, nên phần trăm người theo đạo này trên thế giới rất nhỏ và hầu như tất cả đều đặn sinh sống ở Nhật. Hiện tại, Thần đạo có khoảng hơn 100.000.000 tín đồ, hơn 80.000 ngôi đền Thần đạo trải dài trên khắp nước Nhật có thể nói lên sức ảnh hưởng của tôn giáo này đến cuộc sống và văn hóa của người dân nơi đây. Bao nhiêu ngôi đền cũng là bấy nhiêu lễ hội được diễn ra suốt cả năm, như là một chất gắn kết tinh thần của người dân với nhau, và với niềm tin, sự tín ngưỡng của họ.

Ngày nay, Thần đạo có mặt trong nhiều nghi lễ hay các dịp hệ trọng của người dân Nhật Bản. Một đám cưới truyền thống Nhật Bản sẽ được cử hành theo nghi thức của Thần đạo. Hay mỗi khi năm mới đến, gần như bất kỳ người Nhật nào cũng sẽ đến cầu nguyện tại các ngôi đền, họ mong một năm mới may mắn, mong được ban sức khỏe, mong đỗ đạt hay cầu duyên lành sẽ đến.

Nếu du khách muốn hiểu biết thêm về Tín ngưỡng Thần đạo, hãy thực hiện một chuyến du lịch Nhật Bản để có cơ hội khám phá và trải nghiệm nha!

Ikebana – “Hoa đạo” (còn được gọi là “Kado”), là một trong những nghệ thuật cắm hoa đặc sắc nhất được người Nhật gìn giữ và phát huy. Đó không những là cách thức cắm hoa thông thường mà còn là nghệ thuật tượng trưng cho sự khéo léo và tỉ mỉ. 

Theo nghệ thuật Ikebana, cắm hoa không chỉ hiểu đơn giản là hoa được cắm vào bình, mà người cắm hoa phải nắm được ý nghĩa của các loài hoa tương đương các vật dụng cắm kèm, bình hoa phải có màu sắc hài hòa với cách bài trí của phòng, bình cắm và không gian đặc thù. Cắm hoa phải làm nổi bật được ý nghĩa hài hòa tượng trưng cho thiên, địa, nhân.

Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản xuất hiện cùng với sự truyền bá của Phật giáo từ Trung Quốc vào Nhật Bản thế kỷ VI. Thời đó người ta rất coi trọng nghi lễ dâng hoa lên những người đã khuất với mục đích an ủi và làm cho linh hồn của họ được siêu thoát. Việc làm này gắn liền với nghi lễ của Phật giáo Nhật Bản. Nó có tên gọi là “Kuge”. Vào cuối thế kỷ VII, phong tục Kuge trở nên phổ biến ở các đền thờ. Người ta cho rằng dâng lên những bông hoa với vẻ đẹp tuyệt vời là sự tôn kính và thể hiện lòng khao khát được tiếp dẫn tới thế giới tây phương cực lạc, miền đất tịnh độ mà Phật giáo giảng thuyết. Khi con người ta hướng về nguồn cội, tức hướng về nơi khởi nguyên của bản tính tự nhiên con người, thì đồng thời triết lý của tôn giáo này là hướng người Nhật cổ tới thiên nhiên, đưa vẻ đẹp của thiên nhiên vào trong không gian sống của mình và ý thức gìn giữ thiên nhiên. Đến thế kỷ X, khi phái Jodo của Phật giáo trở nên phổ biến thì Kuge bắt đầu đóng vai trò trang trí. Theo phái Jodo, thì cắm hoa là nghệ thuật mô tả trí tưởng tượng của con người. Lúc này cắm hoa đã mất đi ý nghĩa tôn giáo mà trở thành nghệ thuật trong sự bài trí. Vào thế kỷ XV, thời Muromachi, khi tướng quân Ashikaga Yoshimasa trị vì đất nước. Tất cả những ngôi nhà lớn nhỏ đều đặn có Tokonoma hay những hốc tường để đặt các đồ mỹ nghệ, để cắm hoa. Ở thời kỳ này, các nhà sư là người mô phỏng trí tuệ và cảnh giới của mình về trí thức và nghệ thuật cắm hoa. Phá vỡ khoảng cách về tầng lớp trong nghệ thuật, khiến người dân thường cũng có khả năng thưởng thức và thực hiện loại hình nghệ thuật này. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, khi các yếu tố của Tatebana trở nên thống nhất và được hệ thống hoá, Tatebana được phát triển thành dạng thức Rikka, một kiểu cắm hoa đứng. Phong cách cắm hoa Rikka, thể hiện vẻ tráng lệ của thiên nhiên, quy ước là hoa được cắm theo hình núi Sumeru, ngọn núi huyền thoại của thế giới nhà Phật mang ý nghĩa tượng trưng cho toàn vũ trụ.

Tiếp tục phát triển cho tới ngày nay, Ikebana đã mang theo một sức sống mãnh liệt và xuất sinh thường xuyên trường phái hay cách cắm khác nhéu, tạo nên một bức tranh đa dạng về phong cách và ý tưởng nghệ thuật. Đồng thời mang theo sự đặc trưng cho nền văn hóa đậm sự tinh tế và thanh tao, có tổng giá trị thưởng thức tuyệt vời này.

Như những loại hình nghệ thuật khác của “xứ Phù Tang”, Ikebana cũng được người Nhật gửi gắm vào đó những ý nghĩa nhất định. Người Nhật vô cùng yêu thiên nhiên và điều đó thể hiện trong các nét văn hóa của họ. Ở Nhật Bản, mỗi loài cây cỏ đều chứa đựng một ý nghĩa riêng biệt. Vậy nên người ta rất thận trọng và nghiêm ngặt trong việc lựa chọn nguyên vật liệu để cắm hoa. Ví như, cây thông mang ý nghĩa vĩnh hằng thường được sử dụng trong dịp năm mới. Vào mùng 3 tháng 3 hàng năm, những cành đào nở rộ được sử dụng cho Tết Búp bê. Tre dẻo dai tượng trưng cho sức trẻ trong khi những cành mai nở rộ là biểu tượng của tuổi già.

Ý nghĩa của Ikebana cũng được thể hiện qua bố cục tương đương màu sắc. Gió lớn ở Nhật Bản thường xảy ra vào tháng 3, vậy nên trong thời gian này, người ta hay cắm các nhánh cong để phản chiếu sự chuyển động của gió. Hoa trắng được dùng trong dịp tân gia, vì chúng tượng trưng cho nước, giúp chủ nhà thoái khỏi mọi đám cháy, trong khi ngược lại, hoa đỏ như lửa sẽ bị tránh đi.

Ikebana còn là sự giải trí nhẹ nhàng sau những chuỗi ngày lao động mỏi mệt. Kado giúp con người hoà điệu với thiên nhiên và tự khám phá bản thân mình. Nếu một lúc nào đó ta cảm thấy mỏi mệt hãy nghỉ ngơi và thư giãn, hãy nghĩ tới những bông hoa. Chính những bông hoa sẽ giúp ta trút bỏ mọi mỏi mệt, mặc sức hoà mình với thiên nhiên tươi đẹp. Lúc này, Ikebana trở thành một nghệ thuật đem lại cho con người sự thoải mái và vui vẻ. Con người trước thiên nhiên thật nhỏ bé, mọi bộn bề lo toan của cuộc sống phổ biến dường như tan biến mất. Ikebana có thể nhỏ bé, dễ dàng mà tinh tế hoặc đồ sộ, nổi bật mà điệu đà nhưng nó đều là những tác phẩm mang ý nghĩa rất lớn, nó mang con người đến với thiên nhiên, thể hiện khát vọng vươn tới thiên nhiên, vươn tới cái đẹp. Khi ngắm nhìn những tác phẩm Ikebana, thật là thú vị nếu du khách cảm nhận được tình cảm, ý tứ của người nghệ nhân cắm hoa gửi gắm vào tác phẩm của mình.

Ikebana còn giúp cho ngôi nhà và môi trường xung quanh mỗi người trở nên tươi mát hơn, trong lành hơn chỉ bằng những bông hoa, những cành lá giản dị, mà không cần tới một khu vườn rộng lớn, tốn kém. Có một bình hoa trong nhà sẽ khiến cho ngôi nhà trở nên thoáng mát hơn đó chưa kể đến mùi hương quyến rũ mà những bông hoa đem lại. Ikebana còn tốt cho cơ thể và tâm hồn của con người. Ikebana được dùng trang trí trong nhà luôn luôn là những thách thức lớn. Chúng vừa phải lấp những khoảng trống sẵn có lại vừa thể hiện được chủ đề và tâm trạng mà người cắm muốn chia sẻ.

Đặc biệt, khi Ikebana trở thành một phần văn hóa Nhật Bản thông qua đạo Phật, nó mang thêm nhiều ý nghĩa triết học xuất phát từ tôn giáo. Người Nhật tin rằng nên chuyên chú và kiên nhẫn cắm hoa trong im lặng. Khía cạnh thiền định này giúp người cắm thấu hiểu cỏ hoa sâu sắc, sắp xếp bố cục đẹp đẽ và trên hết là gần gũi thiên nhiên hơn. Quan trọng là người cắm phải hiểu được cách chế tác các nguyên vật liệu để điểm tô thêm vẻ đẹp trời phú vốn dĩ của chúng. Những đóa hoa có thể được ngắt ra và gắn lại ở một vị trí tương thích hơn về mặt thẩm mỹ hoặc chăng, có khả năng bị cắt tỉa để làm nền cho những bông hoa khác. Những cành nhánh có khả năng được uốn cong hoặc duỗi thẳng cho những tạo hình phức tạp. Cả vật liệu khô và tươi đều đặn được cắt hoặc sơn khi cần thiết để hài hòa bố cục.

Trong phong cách cắm hoa của người Nhật, họ không chỉ sử dụng dễ dàng là một bông hoa, họ coi trọng cách xếp đặt, bố cục từ đó dùng cả cánh, cuống, lá. Người Nhật coi trọng hình thể của lá và hoa, cắm hoa nhưng không giết chết nó, cho nó một cái hồn và sự tăng trưởng tự nhiên của hoa lá nơi thiên nhiên. Một cái khéo của nghệ nhân cắm hoa Nhật bản là ngay cả khi chỉ có một loại hoa được dùng thì người cắm hoa cũng cố gắng để biến bình hoa đó thành một biểu tượng hoàn hảo của thiên nhiên.

Trong nghệ thuật cắm hoa của người Nhật, họ coi trọng vật liệu cắm và cách thức trang trí hay ý nghĩa trên vật dụng cắm. Nguyên tắc là ít khi dùng loại lá hay loại hoa đã nở hết tầm cỡ, bởi vì các hoa lá được cắm vào lúc nở rộ nhất sẽ mau héo tàn, rủ xuống, diễn tả sự suy tàn hay chấm dứt.

Các cành cây có lá lớn hay các bụi cây thường xuyên lá cũng không được dùng đến, mà nụ lá, nụ hoa được ưa thích hơn. Lý do của điều này là vì trong khi ở trạng thái nụ, vẻ đẹp của cành hoa không bị che khuất và trong khi dùng các nụ, người ngắm hoa có được niềm vui là ngắm nhìn chúng nở ra từ từ, chậm chạp, cành hoa nhiều nụ biểu tượng cho niềm hi vọng hay sức sống. Như vậy, nghệ thuật Ikebana phải mang theo ý nghĩa phát triển liên tục trong cuộc sống và phải diễn tả sinh lực của cuộc sống.

Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản có thường xuyên trường phái và phong cách khác nhau nhưng vẫn theo một nguyên tắc cơ bản về một tam giác tỷ lệ, trong đó có các chủ thể tượng trưng cho Nhật – Nguyệt – Địa; hoặc cũng có khả năng là Thiên – Nhân – Địa. Việc lựa chọn chiếc bình cũng khá quan trọng, vì lượng nước và cách tiếp xúc với không khí của nó có thể ảnh hưởng đến bố cục tổng thể. một số phong cách cắm hoa đặc biệt như:

Rikka là phong cách cắm hoa ra đời sớm nhất và vẫn được phổ biến cho đến ngày nay. Rikka có nghĩa là “cắm hoa thẳng đứng”, một phong cách phát triển từ thế kỷ XV dưới thời Muromachi. Rikka chính là khởi thủy của những gì làm nên Kado bây giờ.

bắt buộc của kiểu cắm hoa này là bình sử dụng để cắm hoa phải cao và to, hoa cắm trong bình ở tư thế thẳng. Rikka thể hiện vẻ đẹp của tự nhiên. Một bình hoa Rikka luôn có 7 cành thể hiện cho đồi núi, thác nước, thung lũng và những sự vật khác trong tự nhiên.

Thiết kế của kiểu Rikka là rộng lớn, thanh tú và nổi bật. Sự sắp xếp cơ bản của 3 cành hoa tạo thành khung cho những cánh hoa. Những cành hoa này thường cân đối và to lớn về tỉ lệ. Một bình hoa Rikka trung bình có kích thước từ 3 đến 5 lần chiều cao hoặc chiều rộng của bình cắm. Một khi chiều dài của cành hoa chính đã được định, những cành hoa còn lại được cân đối theo tỉ lệ với cành chính đó. Một bình hoa Rikka cắm xong sẽ có dạng hình cầu với không gian rất lớn.

Shoka là phong cách thông dụng nhất trong nghệ thuật Ikebana. Nó có nghĩa là hoa sống. Xét về cách thức thì kiểu cắm hoa Shoka khá đơn giản nhưng để lột tả hết ý nghĩa của nó thì không phải ai cũng làm được. Một bình hoa Shoka đạt yêu cầu là sự hội tụ đủ 3 thành phần: Ten, Chi và Jin nghĩa là Trời, Đất và Con người.

Khi cắm, chiều cao và độ dài của các cành hoa phải thể hiện rõ vị trí của 3 yếu tố trên. Người ta sử dụng chiều cao của bình hoa làm chuẩn, nhành hoa cao nhất trong bình đại diện cho Thiên, chiều cao của nó bằng 3 lần chiều cao của bình hoa. Nhành hoa thứ 2 đại diện cho Nhân, cao chỉ bằng 2/3 nhành hoa Thiên và cành Địa thấp nhất, chỉ bằng 1/3. Một bình hoa được cắm theo đúng phong cách Shoka phải đáp ứng các quy tắc cân bằng nêu trên.

Shoka là phong cách cắm hoa được đơn giản hóa từ phong cách cắm theo kiểu thẳng đứng Rikka để phù hợp với thường xuyên tầng lớp dân chúng. Shoka thể hiện vẻ đẹp giản dị của một cách tự nhiên bằng việc sử dụng ít cành lá nhưng thể hiện sự vươn lên hướng về mặt trời. Shoka theo thuyết Thiên – Địa – Nhân, trong đó có 3 cành chính với tên gọi là Shin – Soe – Tai, tượng trưng cho sự hòa hợp của Trời, Đất và Con người. Người Nhật thường dùng phong cách cắm hoa Shoka để trang trí nhà cửa trong những ngày đầu năm mới.

Phong cách Shoka nhấn mạnh đến sức sống, nguồn năng lượng đang phát triển. Những bình hoa được cắm theo phong cách Shoka thường được người Nhật bài trí ở hốc tường Tokonoma, nơi trang nghiêm nhất trong căn phòng. Bên cạnh bình hoa, tại Tokonoma còn có một bức tranh phong thủy hay một bức thư pháp. Cách trưng bày tối giản này thể hiện sự khéo léo và tinh tế cao độ. Theo quan niệm của người Nhật, vật trang trí không cần nhiều nhưng phải đảm bảo thứ tự sắp xếp hài hòa và đúng vị trí.

Moribara có nghĩa là “hoa chất đống” hoàn toàn khác với kiểu hoa thẳng đứng truyền thống. Moribana là phong cách cắm hoa trên những cái đĩa bẹt, kết hợp với hoa, cây, lá, quả và cả nước để sáng tạo nên những hình ảnh độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại. Sự sáng tạo này đã dẫn đến việc hình thành nghệ thuật cắm hoa Ikebana hiện đại. Moribana – một dạng thức mới của Ikebana xuất hiện giữa sự kết hợp của phong cách cắm hoa truyền thống và phong cách phương Tây. Trong khi phong cách Rikka đã ra đời phát triển qua nhiều giai đoạn và có rất thường xuyên quy luật thì phong cách Moribana chỉ mới xuất hiện khoảng 100 năm và Moribana có khả năng sử dụng để trang trí trong những phòng theo phong cách phương Tây chứ không nhất thiết chỉ được đặt trong những hốc tường của những căn phòng xây theo phong cách Nhật Bản truyền thống.

Moribana đem đến một tình cảm hoàn toàn khác so với loại cắm hoa trước kia. sử dụng một bình nông cho phép rải hoa về một bên, đó là một dạng thức mà hoa tưởng tượng dường như được cắm mãi dù chỉ là “chất đống” thay đổi từ sự nhấn mạnh vào đường nét của loại Ikebana trước đây, một cách cắm hoa trong không gian rộng lớn hơn và sâu hơn đã ra đời. Đặc điểm của phong cách Moribana là hình dáng một cách tự nhiên với vô số những bông hoa tuyệt mỹ. Đối với truyền thống cắm hoa từ lâu đời, Moribana thực sự là bước đổi mới mạnh mẽ và được sử dụng thường xuyên trong việc trang trí phòng theo phong cách phương Tây. Phong cách Moribana mở ra con đường tự do cho nghệ thuật cắm hoa, tìm cách thu nhỏ lại một phong cảnh hay một mảnh vườn. Đó là phong cách cắm hoa có thể được thưởng thức ở bất kỳ đâu và thích hợp cho cả khung cảnh trang trọng lẫn thân tình.

Chabana gần gũi với triết lý Thiền nhất, đơn giản và không gò bó. Đối lập sâu sắc với tính nghi thức của phong cách Rikka, Chabana xuất hiện như một phong cách tự do của nghệ thuật Ikebana. Đây là một phong cách đơn giản chỉ với hoa và lọ. Toàn bộ ý tưởng là nhằm để nhấn mạnh vẻ đẹp một cách tự nhiên của hoa. Gồm một hoặc hai bông hoa hoặc cành cây trong một bình hoặc một chậu nhỏ, phong cách Chabana đã trở thành nền tảng của một phong cách không có gì bỏ được gọi là “Nageire” (nghĩa đen là “quẳng vào”).

Phong cách Chabana dùng một bình hoa cao với rất ít vật liệu. các loại hoa đơn giản, có màu sáng được coi là thích hợp. Phong cách này sử dụng những kỹ thuật tinh tế để tạo ra vẻ đẹp một cách tự nhiên đơn giản mà nên thơ. Đặc điểm của phong cách Chabana là hoa không được cắm thẳng đứng mà được đặt vào lọ một cách rất tự nhiên. do đó, lọ hoa phải cao, có miệng nhỏ, phong cách Chabana có thể dùng trong các phòng như một phần phụ thêm cần thiết không thể thiếu.

Ngày nay, nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản cực kỳ phát triển với thường xuyên trường phái cắm hoa, những quy luật tuy có khả năng khác nhéu về quan niệm, về ý tưởng, về phương pháp, nhưng tất cả đều tựu trung lại một điểm là tình yêu thiên nhiên được nâng lên thành nghệ thuật.

Với tình yêu và sự nâng niu lớn lao dành cho thiên nhiên của người Nhật, nghệ thuật cắm hoa đã trở thành một trong số những nét văn hóa đặc trưng của Nhật Bản và rất được thường xuyên người quan tâm. Nếu du khách cũng có niềm đam mê với nghệ thuật Ikebana đặc sắc này, hãy du lịch Nhật Bản để có cơ hội khám phá và trải nghiệm nhé!

Phật giáo có một sự đóng góp to lớn không chỉ đối với sự phát triển nghệ thuật ở Nhật Bản, mà còn đối với sự phát triển văn hóa ở hầu hết mọi phương diện. Sự thực, nếu không có Phật giáo, Nhật Bản không bao giờ đạt được nền văn minh như Hiện tại.

quy trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản.

Từ sau công nguyên, đạo Phật đã vượt qua khỏi biên giới của triết lý truyền thống Ấn Độ và mở rộng phạm vi tác động sang thường xuyên nước ở Trung Nam Á và Đông Bắc Á. Nhật Bản cũng là một nước không nằm ngoài sự ảnh hưởng của đạo Phật.

Từ thế kỷ thứ III, Nhật Bản đã có những tiếp xúc với cô đồng bói toán và các thổ hào của các bộ tộc ở Trung Quốc. Vào khoảng đầu thế kỷ V, Nhật Bản bắt đầu tiến hành các cuộc xâm lược, cướp bóc và các thợ lành nghề là người Triều Tiên, Trung Quốc đã bị bắt về Nhật Bản. thường xuyên người trong số tù binh đã trở thành người mang kỹ thuật mới về cho người Nhật, cùng lúc ấy họ cũng chính là người mang nền văn minh từ lục địa đến quần đảo Nhật Bản. một trong số những tri thức đó là những tri thức về phật giáo.

Đạo phật chính thức được đón nhận ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI (năm 538 sau công nguyên). Cũng từ đó trở đi, Phật giáo đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng văn hoá xã hội ở Nhật Bản. tuy nhiên, đạo Phật ở Nhật Bản không được sao chép nguyên bản trực tiếp từ Ấn Độ mà đạo phật trước khi vào Nhật Bản đã được phát triển ở Trung Quốc và đôi chút biến đổi ở Triều Tiên. Đồng thời đạo phật khi du nhập vào nhật bản vô tình hay hữu ý đã được bản địa hoá cho phù hợp với trình độ nhận thức và với một vài tín ngưỡng bản địa lợi dụng nó tạo điều kiện để đạo phật dễ thâm nhập vào quần chúng nhân dân Nhật Bản. Như vậy là có sự ảnh hưởng qua lại giữa đạo phật và các tổng giá trị truyền thống của người dân Nhật Bản. Đạo phật là một yếu tố kích thích các tổng giá trị truyền thống phát triển và ngược lại.

Nhân tố tôn giáo và trí tuệ quan trọng nhất mà đạo phật đưa vào Nhật Bản chính là nguyên tắc siêu nghiệm và phủ nhận thế giới. Nguyên tắc này đại diện cho một chiều hướng tổng giá trị hoàn toàn mới, đó là một sự kiến giải không hề xuất hiện trong tư tưởng tôn giáo vốn có của Nhật Bản. Trước khi có đạo phật du nhập vào và khi đạo phật vào Nhật Bản, những người không đồng ý cũng như những người ủng hộ đạo phật đều coi Phật tổ là Kami, một Kami từ nước ngoài tới. Ngay cả đạo phật thời kỳ đầu du nhập cũng bị coi như là một phương thuận tiện nhằm thoả mãn những quan tâm của trần thế và các tượng Phật được mọi người thán phục chỉ vì vẻ đẹp tinh tế.

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về đạo phật Nhật Bản không có sự thống nhất về tác nhân làm cho đạo Phật có thể bén rễ vững chắc trong xã hội của Nhật Bản. một số người cho rằng việc truyền bá đạo phật vào Nhật Bản là kết quả của sự bành trướng tư tưởng văn hoá Trung Hoa hơn là hệ quả của mong muốn nội tại của nước Nhật. một số người khác lại cho rằng đây chính là kết quả của sự phát triển lôgic của xã hội vì lúc đó xã hội Nhật Bản đang trong giai đoạn hình thành và phát triển chế độ phong kiến cho lên lúc này các nhà triết lý của đạo phật và Khổng giáo đã có những tư tưởng phù hợp với mong muốn lúc đó là xây dựng một chế độ phong kiến trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều đặn nằm trong tay Hoàng Đế chấm dứt phân tranh và thống nhất đất nước. Như vậy, phật giáo ít thường xuyên cũng có những gây ảnh hưởng sự phát triển trong buổi đầu của nền văn hoá nhật bản và sự phát triển của đất nước Nhật Bản.

quy trình phát triển của Phật giáo Nhật Bản

Phật giáo bắt đầu được truyền vào Nhật Bản từ thời kể thế Thiên Hoàng (507 đến 531) nhưng phải đến thời thái tử Thánh Đức thì mới có những bước phát triển rộng rãi và truyền bá công khai. Dưới góc độ của lịch sử và dựa vào phương pháp phân kỳ Phật giáo Nhật Bản, có thể chia quá trình hoàn thành và phát triển Phật giáo của Nhật bản thành 3 thời kỳ chính:

Thời kỳ đầu (từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ VIII)

Đây là thời kỳ tiếp nhận Phật giáo hay còn gọi là thời kỳ “truyền bá”. Từ thời kỳ này, đạo Phật đã được coi là công cụ trực tiếp của công đình và một bộ phận tăng lữ, quý tộc Nhật Bản. Vì vậy, nó phát triển rất nhanh và mạnh mẽ. Trong thời gian này, tất cả có 6 giáo phái được thành lập.

Trong quá trình phát triển Phật giáo ở giai đoạn này, thì người có công lớn nhất phải kể đến là hoàng thân Shotoku. Ông là người nhật đầu tiên thực sự hiểu được tư tưởng của đức phật và tin tưởng sâu sắc vào đạo Phật. Tháng 4 năm 12 Suy Cổ, thái tử Shotoku đã cho ban hàng hiến pháp 17 điều trong đó ông sử dụng tư tưởng Phật giáo để chỉ đaọ về tinh thần, lấy lý luận nho gia làm căn cứ chính trị và lấy nguyên tắc pháp gia làm phương pháp thi hành.

Điều thứ 2 trong hiến pháp ghi: “Thành kính đối với tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Đây là trung quy của tứ sinh, là cực tông của vạn quốc. Đời nào, người nào mà không theo pháp ấy, người ta ít lầm nỗi, tội ắc có thể cải tạo nếu không quy tam bảo lấy gì làm rõ thẳng cong. Như vậy, công dụng của quy tam bảo là có khả năng uốn thẳng thành cong. Con người ta hoặc giả hướng thiện, nếu giáo dục không đúng thì không ai coi thiện như nước chảy xuôi. Và phép giáo hóa gửi ở sự chỉ đạo tối cao của tín ngưỡng tam bảo với mục đích cao cả nhất của nhân gian. Ngay cả chúng sinh bốn loại nếu rời bỏ tam bảo thì cũng không còn cửa nào thoát khỏi bể khổ”. Qua đây ta có khả năng thấy được thái tử tôn sùng tam bảo sâu sắc biết nhường nào.

Trong thời gian thái tử Shotoku (574-662) cầm quyền đã có 46 ngôi chùa được xây dựng và có hơn 1376 tăng ni, phật tử tham gia. Đặc biệt là năm 645 khi “chiếu thư” đầu tiên về phát triển phật giáo được công bố thì phật giáo đã được phát triển nhénh chóng đến cuối thế kỷ thứ VII cả nước đã có hơn 540 ngôi chùa với hơn 3363 tăng ni và phật tử tham gia đạo Phật. Sau này người ta tôn sùng thái tử Shotoku là Thánh Đức đây là phương pháp gọi tôn kính để ghi nhớ công đức lớn lao của ông.

Trong suốt các thế kỷ từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ VIII, nhờ vào sự ủng hộ của nhà nước mà đạo Phật đã phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng rộng lớn đến mọi tầng lớp nhân dân. Thời kỳ này có rất nhiều chùa, tự viện của đạo phật được xây dựng thường xuyên nghệ nhân đã tạc những bức tượng Phật tuyệt đẹp, một trong những tác phẩm tiêu biểu ở đền Todaiji thuộc Nara.

Người Nhật tin sùng đạo Phật, nhưng không Vì vậy mà họ bỏ tín ngưỡng đối với các chư thần vốn có từ xưa của Nhật Bản. Họ đã không loại trừ truyền thống Shinto bản đại mà họ còn hướng tới sự hợp nhất một cách hài hoà giữa đạo phật và đạo Shinto. Họ đã thờ phật song song với thờ thần. Đặc biệt là một thánh tự được xây dựng trong khuôn viên của điện thờ Shinto.

Như vậy, mối quan hệ với các tôn giáo khác có tầm quan trọng trong việc xác định tương lai, tính chất thích nghi với các điều kiện sở tại tương đương sự chuyển hoá của đạo phật trong các tình huống cụ thể của đất nước N hật Bản. Đặc biệt là sự biến đổi của đạo Phật dưới hình thức “Zen” vào khoảng thế kỷ VII đã trở thành học thuyết của giới võ sĩ đạo.

Thời kỳ Nhật Bản hoá (từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ XIV)

Trong thời kỳ này sự hỗn dung giữa tư tưởng của đạo Phật và đạo Shinto đã được diễn đạt một cách có hệ thống bằng các giáo phái hỗn dung như Ryobu và Sanno của đạo Shinto. Nhưng cùng lúc ấy với chiều hướng trên vẫn có sự tranh cãi giữa đạo Phật và đạo Shinto. Những người theo đạo Phật cho rằng các Kami của đạo Shinto là những biểu hiện thứ hai của đức Phật và Bồ tát, còn các người theo đạo Shinto thì lại cho rằng thực thể đầu tiên hay cái bản thể là do các Kami tạo lên và họ còn cho rằng các đức Phật và Bồ tát chỉ là sự biểu hiện của Kami mà thôi.

mặc khác, vào khoảng thế kỷ IX đến thế kỷ X, Phật giáo dòng Tendai, sau khi đạt đến sự thịnh vượng đã có những ảnh hưởng tích cực đến hệ thống giáo dục của Nhật Bản. Và sau đó đã phân hoá với thần đạo. Cuối cùng thì giáo phái này đã tách ra thành các giáo phái: Tendai, Shugei, Shinsei, Dimon.

Một bước phát triển quan trọng khác của đạo Phật, được đánh dấu bằng những phong trào tiến bộ của tôn giáo mới ở thời kỳ Kamakura (1193-1333). Về sau giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn “quần chúng hoá” hay là “sự hình thành của đạo Phật theo kiểu Nhật Bản”. Các nhà sư Nhật Bản được phép lập hạnh phúc gia đình với tư tưởng Phật ở tâm và mọi người đều có thể trở thành Phật. Trong thời kỳ này đã xuất hiện một vài tư tưởng gia của đạo Phật như: Honen, Shinran, Dogen và Nichiren. Đây chính là 4 vị đã sáng lập ra bốn giáo phái mới của đạo phật tương ứng là: Jodshu, Jodo, Shinshu, Thiền tông và Hokke. Bốn giáo phái này, đã tạo nên những đóng góp vĩ đại không những cho lịch sử phật giáo Nhật Bản mà còn cho lịch sử tư tưởng Nhật Bản nói chung.

Chẳng hạn, Honen (1133 -1212) đã tìm ra con đường giác ngộ đạo Phật mà mọi người đều đặn có khả năng hiểu được rõ ràng. Ông nhận thấy có khả năng cứu vớt được linh hồn khi người ta có quan niệm Nenbutsu tức là Namu Amida Butsu nghĩa là cầu khấn Adiđà hay Nam mô A di đà phật. A di đà là vị Phật của cuộc sống, là ánh sáng vô biên. Với lòng tin này vào a di đà và niềm Tịnh độ (Jodo), Honen đã thành lập ra giáo phái Jodo hay còn gọi là Tịnh độ tông.

một trong những môn đệ của ông là Shinran (1173-1262), người ta đã tiến xa hơn trong việc nhấn mạnh tới lòng tin tuyệt đối vào quyền lực cứu vớt của adiđà và hệ quả tất yếu của điều đó. Shinran gạt bỏ tất cả lòng tin của mình vào bất kỳ cái gì khác trên thế giới, kể cả vào khả năng của cá nhân mình. Ông đã dẫn cả tư tưởng của sư phụ mình và kết luận một cách logic rằng: Con người tụng Nenbutsu và tin vào adiđà đều không dựa vào bất kỳ khả năng hay quyền lực nào của con người mà chỉ do đức phật cho phép anh ta làm được như vậy. Ông nói: “Dù cho người thiện có thể được tái sinh ở niềm tịnh độ thì cái ác lại càng nhiều thêm”, đây là phương pháp diễn đạt hùng hồn về niềm tin chủ yếu dựa vào sự phủ nhận hoàn toàn của bản thân mình. mặt khác, ông còn bắc bỏ tổ chức tự viện truyền thống, ông cho rằng cái đó là không rất cần thiết nữa. Ông còn tán thành quan niệm các thầy tu có khả năng lấy vợ, sinh con tức là sống một đời sống mộ đạo giữa những người bình thường và có những quan tâm đến truyện thế tục.

Dogen (1200 -1253) chính là người đã sang Trung Quốc để tìm lời dạy đích thực của đức Phật, và ông đã tin vào cách tu luyện tạo thiền của đức Phật chính là cách đã giúp đức phật được giác ngộ. Khác hẳn với Shinran và Dogen. Đã nhấn mạnh đến đời sống tu viện ẩn dật, khổ hạnh và kỷ luật nhằm mục đích cố gắng giữ gìn một đời sống tôn giáo. tuy nhiên, ông đã đề cao sự siêu nghiệm và đơn giản hoá đời sống tôn giáo.

Nichiren (1222-1282) sau một thời gian khá dài tìm tòi, ông đã tin rằng Kinh Liên Hoa (Myohorengekyo) có lời dạy cuối cùng của đức Phật liên quan đến sự giải thoát. vì thế, ông đã dạy cho các tín đồ của mình tụng kinh liên hoa, ông tin rằng quyền lực siêu phàm của kinh này sẽ dẫn đến sự giác ngộ. Lập trường của Nichiren được coi là dân tộc chủ nghĩa, xuất phát từ sức mạnh siêu nhiên, được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Sau này giáo phái của ông được chia thành thường xuyên giáo phái phụ và trở thành nguồn gốc của nhiều tôn giáo mới.

Tất cả các nhà lãnh đạo tôn giáo thời kỳ Kamakura, tuy khác nhau về cách tiếp cận với chân lý của đạo Phật nhưng lại giống nhau trong việc thừa nhận ý nghĩa của cái siêu nghiệm và chống lại các nhà lãnh đạo của các đạo Phật trước đây. Những tư tưởng và vận hành của họ đều đặn tạo nên sự thức tỉnh tôn giáo, thậm chí nó còn tạo nên một môi trường giống như một cuộc cải cách tôn giáo. Vì vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, đạo Phật đã thấm sâu vào nhân dân và trở thành phong trào quần chúng.

Thời kỳ tồn tại (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX)

Dưới chế độ phong kiến Nhật Bản, những ảnh hưởng của đạo Phật đã bị thu hẹp mậc dù vẫn còn sức mạnh tiềm tàng trong dân chúng, nguyên nhân là do chính sách hai mặt của chế độ Mạc phủ Tokuga (1603-1867) là vừa lợi dụng, vừa kiềm chế sự phát triển của đạo Phật. Sau khi cách mạng duy tân diễn ra thì tình hình cũng không sáng sủa lên. Và chỉ đến khi Chính phủ tuyên bố ban hành Hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng thì đạo Phật mới được khôi phục địa vị hợp pháp của mình và phát triển lớn mạnh như ngày nay.

Những đặc trưng Phật giáo ở Nhật Bản

Nét đặc trưng đầu tiên của Phật giáo Nhật Bản đó là tính dân tộc trên cơ sở tổng hợp các yếu tố tôn giáo ngoại lai và bản địa. Về giáo lý, Phật giáo Nhật Bản dựa vào thuyết Thần – Phật hỗn hợp và Khổng giáo. Về niềm tin, Phật giáo Nhật Bản là sự hòa hợp giữa niềm tin các vị thần bản địa của Thần đạo Nhật Bản và niềm tin vào hiện thân của Phật và Bồ Tát. Phật giáo Nhật Bản coi các vị Bồ Tát không phải là các đức Phật được du nhập về mà đó chính là các vị Thần của dân tộc mình. Phật giáo ở “xứ Phù Tang” có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố Nhật Bản với các yếu tố ngoại lai như: Phật giáo Triều Tiên, Trung Quốc, nhưng lại mang tính đề cao dân tộc Nhật Bản. Đó là quy trình bản địa hóa một cách sáng tạo nhằm tôn vinh nét đẹp tinh thần và vật chất của người Nhật. Điểm đặc biệt là Phật giáo ở Nhật Bản coi nghi lễ thờ cúng Thái tử (Taishi) ngang với nghi lễ thờ cúng Thích Ca Mâu Ni (Thái tử Tất Đạt Đa) và Di Lặc (Thái tử Ajita). và cạnh đó, các Phật tử Nhật Bản rất tôn kính Thái tử Shotuku như hiện thân đức Phật tổ ở Nhật Bản mặc dù ngài chỉ là một cư sĩ.

Phật giáo Nhật Bản có tính thế tục sâu sắc. “Thế tục” là tập tục ở đời, là đời sống trần tục, đối lập với cuộc sống tu hành theo quan điểm của tôn giáo. Ở đây, thế tục được hiểu theo nghĩa cuộc sống trần tục. Như vậy, thế tục hóa chính là việc đưa tôn giáo vào đời sống thường ngày, thật sự thể hiện tinh thần gắn bó với cuộc sống con người, biến những giáo lý khô cứng thành những bài học sống động để có khả năng áp dụng vào việc xây dựng một xã hội hiền thiện.

Thế tục hóa có trong Phật giáo Ấn Độ với triết lý Phật tại tâm – là triết lý có ý nghĩa rất cao đẹp và sâu xa. Phật chính ở cái tâm, ở lòng lương thiện của mỗi người, từ ngay trong gia đình của mình đến các mối quan hệ xã hội, thể hiện chủ yếu thông qua chân lý về con đường chấm dứt khổ Bát chính đạo bao gồm: chính ngữ, chính kiến, chính tư duy, chính nghiệp, chính mệnh, chính định, chính tinh tấn, chính niệm. Đây là con đường trung đạo vì tránh hai thái cực chạy theo khoái lạc tầm thường và khổ hạnh ép xác. Bát chính đạo là con đường đúng đắn kéo theo thực chứng chân lý tối hậu, dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình an nhờ sự hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và trí tuệ.

Tính thế tục của Phật giáo Nhật Bản thể hiện trước hết là nhiều giáo lý, nghi lễ Phật giáo đã trở thành phong tục, tập quán, thành nếp sống của quảng đại nhân dân. Các nghi lễ Phật giáo Nhật Bản ngày nay chủ yếu được thể hiện bằng các tập tính xã hội như phong tục, tập quán, lễ hội… Các Phật tử ở Nhật Bản không chú ý quá thường xuyên đến các giáo lý của Phật giáo mà quan tâm đến sự phổ độ của đức Phật thường xuyên hơn. Điều này cho thấy rằng ngay trong động cơ, hình thức du nhập Phật giáo đã được thế tục hóa. Thế tục hóa Phật giáo ở Nhật Bản còn thể hiện qua hành Thiền. Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm…Thiền cũng có khả năng được nhìn dưới một góc độ gần gũi hơn là trạng thái của tâm khi biết tất cả sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh mà không có ý niệm phân biệt so sánh, không bị dính mắc đối với mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc đời, không động tâm đối với tất cả các pháp thế gian. Thiền trở thành hình thức ứng xử trong cuộc sống xã hội, tư tưởng, đạo đức, lối sống, hoạt động chính trị, buôn bán… Ở Nhật Bản Phật giáo đã trở thành công cụ đạo đức để ứng xử trong xã hội, thể hiện sâu sắc tính thế tục hóa ở trong tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.

Phật giáo Nhật Bản phong phú tông phái, các Phật tử các tông phái thường tu theo sơn môn. Các tông phái Phật giáo ở Nhật Bản hiện nay bao gồm: Hòa tông, Thánh Đức Tông, Tam Luận tông, Thành Thục tông, Cụ Xá tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Thiên Thai tông, Chân Ngôn tông, Tịnh Thổ tông, Thiền tông, Nhật Liên tông.

Hai phái Thiên Thai tông và Nhật Liên tông chiếm tỉ lệ cao nhất, 60% Phật tử Nhật Bản là theo hai phái này. Ngoài những tông phái Phật giáo ở trên, ở Nhật Bản còn có các tông phái Phật giáo khác. Nhật Bản là quốc gia đa tôn giáo, cùng với sự phong phú về các tông phái của đạo Phật cũng như các tôn giáo khác đã tạo nên một bức tranh tôn giáo đa sắc màu, mang đặc trưng riêng của “xứ sở hoa anh đào”.

Phật giáo Nhật Bản mang tính nhân đạo hiện thực. Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, Phật giáo đã đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức con người và hướng tới một xã hội bác ái. Đạo Phật đã tạo dựng cho các tín đồ, Phật tử một niềm tin vào luật nhân quả, vào vô thường, vô ngã… Niềm tin ấy sẽ chi phối ý thức đạo đức của con người, không chỉ tác động đối với Phật tử mà còn lan toả và tác động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó tạo ra cho con người một sức mạnh tinh thần để vượt lên mọi cám dỗ vật chất, những trắc trở trong đời sống, hướng họ vào một lý tưởng sống tốt đẹp, vị tha. Tình thương và lòng nhân ái giúp Giảm giảm đi tính ích kỷ, từ bỏ tham, sân, si cốt lõi của những thói xấu, những mâu thuẫn, xung đột và bạo hành trong xã hội. Với triết lý đó, Phật giáo Nhật Bản đã tiếp thu và phát huy tinh thần hướng thiện của con người nhưng theo cách riêng của dân tộc mình. Các Phật tử thiên về thế giới thực tại trực tiếp và cụ thể của con người như được may mắn, giàu có, hạnh phúc… Ở Nhật Bản thường kết hợp các khái niệm thuộc di sản Thần đạo truyền thống với các trải nghiệm bản thân về Phật giáo để hình thành nên Phật giáo bản địa Nhật Bản, thể hiện tình thương, lòng từ bi, đặc biệt là đối với những tầng lớp xã hội bị chà đạp, bị áp bức.

Tính nhân đạo hiện thực của Phật giáo Nhật Bản còn được thể hiện ở khuynh hướng thẩm mỹ, tình yêu và sự hòa đồng với thiên nhiên cụ thể như trong nghệ thuật trà đạo, nghệ thuật này thấm nhuần tinh thần của Thiền tông với vai trò của các vị Thiền sư và mang một triết lý Thiền hay chính là triết lý nhân sinh cao đẹp. Nghi thức trà đạo cùng với sự sùng kính thiêng liêng ở Nhật Bản đã mang lại cảm giác như đang được hành hương trở về nơi đất Phật. Trà đạo đã khơi nguồn cho các tín đồ nguồn khoái cảm về sự thanh khiết, sự nhịp nhàng, sự huyền bí của lòng từ ái tương thân, sự cảm thông chủ nghĩa lãng mạn của trật tự xã hội. Hay như ngay trong nghệ thuật Bonsai, người Nhật đã kết hợp việc trồng cây và thiền của Phật giáo để tạo nên những cây có tạo hình đẹp, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và nghệ thuật… Nghệ thuật Bonsai mang đến những bài học kinh nghiệm, triết lý nhân sinh và nhân văn sâu sắc, giúp thanh lọc tâm hồn, tâm hướng đến tổng giá trị đạo đức sống. Môn nghệ thuật này còn giúp đưa con người gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên hơn.

Tham gia vào việc hình thành tinh thần Nhật Bản, với ưu thế là một tôn giáo có bề dày lịch sử, có số lượng tín đồ đông đảo, lại thêm tính chất thế tục ngày càng tăng, Phật giáo Nhật Bản đảm nhận vai trò thế giới quan, nhân sinh quan trong quy trình hình thành và phát triển xã hội Nhật Bản. Góp phần hình thành và điều chỉnh ý thức về quan hệ giao tiếp trong đời sống. Ở Nhật Bản, Phật giáo có rất thường xuyên đặc trưng mang sắc thái dân tộc độc đáo: tính dân tộc, tính thế tục, phong phú tông phái và tính nhân đạo. Điều này đã góp phần tạo nên nét khác biệt của Phật giáo Nhật Bản so với Phật giáo ở các quốc gia trên thế giới.

Một Phật giáo không có tăng già

Từ Đông Nam Á cho đến Đông Bắc Á, có lẽ Nhật Bản là quốc gia duy nhất không có một giáo đoàn những người xuất gia. Khác với những vùng theo Nam truyền hay Bắc truyền, nơi tăng lữ xuất gia được tổ chức theo giới luật, ta có thể khẳng định rằng “ăn thịt lấy vợ” (Nikujiki saitai: nhục thực thê đới) là một đặc điểm của Phật giáo Nhật Bản.

Lý do việc tăng lữ Nhật Bản “ăn thịt, lấy vợ” là vì ở quốc gia này người ta không phân biệt rõ ràng 2 quy chế “xuất gia” với “tại gia”. Ở Thái (theo Nam truyền) chẳng hạn, rõ ràng là những người xuất gia đã tổ chức thành tăng già vững mạnh. Đoàn thể Phật giáo chính là họ và người tại gia chỉ đóng vai trò hổ trợ. Trong trường hợp đó quyền uy của người xuất gia rất cao. Họ có đến 227 điều cấm kỵ và nhân vì trong đó tình dục được xem như một tội trọng nên việc lấy vợ là điều không thể dung thứ. Nam truyền không ngăn cấm việc ăn thịt một cách rõ ràng vì người đi tu bắt buộc phải nhận và ăn tất cả của bố thí. Có điều là với tư cách nhà tu hành, người xuất gia có bổn phận làm gương cho những kẻ tại gia nên tăng lữ Thái Lan phải cố tránh việc ấy. Đến khi Phật giáo Đại thừa ra đời, Phật giáo bao gồm cả những người tại gia. Kẻ xuất gia đóng vai trò người cứu độ và họ cũng phải giữ một số giới luật của hệ thống Bắc truyền. Tuy có chậm trễ nhưng hệ thống giới luật ở Nhật Bản đã được hình thành từ khi tăng Ganjin (Giám Chân, 688-763) từ Trung Quốc vượt biển sang (năm 752). Thế nhưng đến thời Saichô (Tối Trừng, 767-822) và các đệ tử của ông trên ngọn Hieizan (Tỉ Duệ Sơn, vùng Kyôto) thì giới luật ấy đã có phần thay đổi và sau đó, vì nhuốm màu sắc của tôn giáo nguyên thủy bản địa, nó tỏ ra phóng khoáng hơn theo đà xâm nhập của các nhà ẩn tu khổ hạnh sống trong núi có tên là “Hijiri” (thánh, người giữ lửa thiêng). Những người này chỉ đi tu một khoảng thời gian trong năm, ngoài lúc đó, họ sinh hoạt bình thường nên việc lấy vợ, đẻ con, ăn thịt… trên nguyên tắc không có gì phải chú ý. Những Hijiri từ khi biết đến Phật giáo đã tiếp thu tôn giáo này và trở thành tín đồ Phật giáo. Nói cách khác, họ đã ghép yếu tố bản địa vào trong tôn giáo ngoại lai và đồng hóa với nó. Theo Yanagita Kunio, không phải Shinran (Thân Loan, 1173-1262) đã đề ra tư tưởng “đi tu ăn thịt lấy vợ” vì trước đó 170 năm (1004), đã có bằng chứng là các Zokuhijiri (tục thánh) từng sinh hoạt theo kiểu đó rồi! Với những người này, cái chính yếu là phát tâm (Hosshin) và đạo tâm (Dôshin) tức là tôn trọng ý chí con người chứ không phải giới luật. Nếu muốn giữ giới, có khả năng giữ trong một thời gian nào đó, khi cần sự thanh tĩnh mà thôi. Đặc trưng này cũng thấy nơi Thần đạo và thường xuyên hình thức tôn giáo Nhật Bản. Phải chăng theo cách suy nghĩ của người Nhật thì Thần Phật chỉ giáng lâm trong dịp lễ nên người đại diện tiếp rước các vị ấy chỉ cần chay tịnh vào lúc đó. Chẳng những có quyền ăn thịt lấy vợ, tăng còn có khả năng “phá giới” (Hakai), nghĩa là rời bỏ tập thể của mình ngay cả nhiều phen nếu người ấy vì lòng cầu đạo (Gudô) mà muốn đi tìm một hình thức tu tập thích hợp hơn cho mình. Điều đó giống như xuất gia thêm một hay thường xuyên lần nữa. Người đi tu, lúc đó sẽ thuộc về một không gian đặc biệt (biệt sở: Bessho), nơi mà quyền lực thế tục lẫn thần quyền của các đại tự viện đều không thể chạm tới.

Ý tưởng kẻ phàm phu (Bonpu) chỉ cần xưng danh niệm Phật để bày tỏ ý chí quy y (kie), tuyệt đối dựa vào tha lực của Amidabutsu (A Di Đà Phật) đã được Honen (Pháp Nhiên) – một thanh tăng (xin phép đừng đọc là thánh tăng) – đưa ra khi ông muốn đại chúng hóa Phật giáo. Shinran, một tục tăng và cũng là người đệ tử ngoan cường của ông, đã đi tiếp con đường đó. Sau bao gian khổ, chịu đàn áp bách hại, Shinran đã thành công trong việc thành lập một giáo đoàn Tịnh độ Chân tông “phi tăng phi tục”. Họ gọi người điều hành là Kebozu (sư để tóc), gọi nơi tụ họp là Dojo (đạo trường), công khai chống đối những thế lực đã tước đoạt quyền tu hành và lưu đày mình. Năm 1872 (Meiji 5), với chính sách mới, việc ăn thịt, lấy vợ, để tóc đã được nhà nước công nhận bằng văn bản và tăng lữ đã trở thành một nghề. Thế nhưng việc này chỉ chứng tỏ nó là hệ lụy của một chính sách quản lý chùa chiền, với mục đích đặt Phật giáo bên dưới Thần đạo, nhằm biến Thần đạo thành lá bài của chủ nghĩa quốc túy (Ultra-nationalism). Văn bản hành chính này bị phê phán là đã phát xuất từ một sự hiểu biết sai lệch lịch sử tôn giáo Nhật Bản.

Tượng Phật và văn hóa nguyên thủy

Tuy tượng Phật chưa ra đời vào giai đoạn Thích Ca thuyết pháp, nhu cầu đứng trước hình ảnh của Phật để tập trung suy tư từ lâu đã tiềm tàng nơi giáo đồ nói chung. Người Nhật cũng theo con đường đó nhưng phải nói họ đã uốn nắn cách chế tạo tượng Phật theo văn hóa dân gian của nước mình. Các tượng Phật người Nhật yêu chuộng thường nhỏ, làm bằng gỗ và không những biểu lộ sự từ bi với dáng dấp trầm tư mà có khi còn giận dữ, dọa nạt.

Tượng ở các chùa nổi tiếng như Horyuuji, Zenkoji hay Sensoji có kích thước trung bình cỡ 30-40cm, cỡ bức tượng Thích Ca đản sinh mà họ nhận được đầu tiên từ vua nước Kudara. Có lẽ người Nhật xem Phật giống như những vị thần của Thần đạo nhưng là “man thần” bởi vì đã đến từ một đất nước xa lạ. Những cái tượng Phật tuy bé nhỏ xem ra phù hợp với văn hóa của họ vốn trọng những nhân vật và đồ vật có hình thù tí hon. Cứ lấy hình ảnh những nhân vật của cổ tích và truyền thuyết Nhật Bản như: Issun Boshi, Momotaro, Uriko-hime hay Kaguya-hime… Tất cả – nam cũng như nữ – đều có thân hình bé nhỏ.

Sau đó là đặc điểm các tượng Phật ở Nhật thường được tạc bằng gỗ theo kiểu Ichibokuzukuri – 木造りnghĩa là đẽo một thân cây thành tượng. Giải thích về tình trạng này, người ta cho rằng nó đến từ tín ngưỡng nguyên thủy xem chư thần thường giáng lâm và nương tựa vào một vật thể, có khi là thân cây nhất là cây quí như bạch đàn (khái niệm “linh mộc” đã có ở Nhật trước khi Phật giáo truyền đến). Lối điêu khắc này về mặt kỹ thuật và mỹ thuật còn có ưu điểm là giúp người tạc tượng diễn tả được những đường nét mềm mại và tinh tế hơn là trên đá hay kim loại.

Ngoài sự bé nhỏ, tượng Phật không phải lúc nào cũng biểu lộ nét từ bi. Tượng Fudo Myoo (Bất Động Minh Vương, Âryâchalanâtha) chẳng hạn là môt tượng với sắc mặt giận dữ. Vì người ta thường thấy chúng được đặt ở vùng Tôkyô ở miền Đông nên mới có kiểu nói “Đông Bất Động, Tây Quan Âm”. Tượng Phật ở Nhật không những đoan chính, hiền hậu mà còn xấu xí, quái dị (mắt lé, răng nanh, thân thể phì nộn, da thịt đỏ cháy) và biểu lộ sự thịnh nộ. Dạng tướng này là để đối phó với lòng ác độc vốn cũng nằm trong bản chất con người. thường xuyên người cho rằng những vị thần xấu xí, hung tợn đó đã đến Nhật cùng với Mật tông và tăng Kuukai (Không Hải, 774-835) nhưng không ai giải thích được lý do tại sao người Nhật yêu chuộng họ. Chỉ có thể suy luận rằng trước khi Phật giáo đến nơi, đã có truyền thống tín ngưỡng thô sơ của người bản xứ sùng kính và sợ hãi các vị thần gieo tai ách.

Kannon (Quan Âm, Kuan-Yin), ngược lại, là một vị Phật tượng trưng cho từ tâm, biết nghe tiếng kêu cứu của con người mà nghĩ ra cách giúp đỡ họ trong những tình huống điều kiện mà họ gặp phải. Tín ngưỡng Quan Âm rất phổ biến ở Nhật Bản nhưng phải nói là – tương đương Địa Tạng (Jizo) và Bất Động (Fudo) – Quan Âm Nhật Bản là một sự kết họp tính cứu tế, giải nạn của Quan Âm truyền thống với tính phồn thực thấy nơi Nữ thần đất nước hang động trong tín ngưỡng dân gian bản địa, tượng trưng cho người mẹ (mẫu thần). Ngoài việc cứu vớt con người khỏi “thất nạn” (Shichinan, bảy loại tai ương), Quan Âm Nhật Bản còn là vị thần se duyên và phụ sản nữa. Như thế, tín ngưỡng Quan Âm ở Nhật là một biến hình của tín ngưỡng dân gian được nhìn dưới lăng kính Phật giáo.

Thần là Phật, Phật cũng là Thần

Đầu tiên, khi tiếp thu Phật giáo, vì sợ chư thần sở tại không bằng lòng mà gieo tai họa, người Nhật đã tự vỗ về mình rằng Phật là những vị thần như chư thần sở tại nhưng chỉ có chỗ khác là đến từ nước ngoài. Dưới thời Kamakura, sự phát triển của Phật giáo cũng gây ảnh hưởng Shintô (Thần đạo). Thần quan ở đền Ise (Ise Gekuu: Y Thế ngoại cung) tên là Watarai Ieyuki đã lập ra Ise shintô (Y Thế thần đạo). Lý luận của ông có tên là Shinpon Butsujaku setsu (Thần bản Phật tích thuyết). Còn gọi là thuyết Hanhonji suijaku. Ý nói “Thần là chính, Phật chỉ là hình ảnh giả mà thần mượn tạm để hiện xuống trần gian”. Nó diễn dịch một cách trái ngược lại lý luận Honji suijaku setsu (Bản địa thùy tích thuyết) của thời Heian xem “thần Phật Bản là Phật hay bồ tát bản địa. Phật mượn hình ảnh thần để cứu độ chúng sinh”. mặc khác cả hai đều đặn có ý xem thần Phật đều là một (Shinbutsu dôtai, Thần Phật đồng thể). Sự kết hợp đầy bao dung này (Shinbutsu ipponron, Thần Phật nhất bản luận) đã được duy trì một cách khéo léo bởi những nhà lãnh đạo tinh thần trải qua nhiều thế kỷ. Một ngôi đền Thần đạo có khả năng được đặt cạnh một ngôi chùa (như chùa Rinnôji đối với đền Tôshôguu ở Nikkô) và ta có thể trưng ra vô số ví dụ tương tự. Trong đền thần cũng có chỗ dành để đặt khám thờ Phật và bày những tạng kinh Phật dù chúng chỉ được nhắc đến bằng những cái tên gọi đặc biệt. Và như thế, cho đến gần đây, khi nguyện cầu điều gì, người Nhật vẫn khấn một lúc cả Thần lẫn Phật (Kamisama! Hotokesama!). Ngay cả việc một Phật tử cầu…. thần cho mình mau thành chánh quả cũng là điều được xem như thỏa đáng. Sự hòa hợp quí giá đó đã giữ cho Nhật Bản giữ cái thế thăng bằng trong cuộc sống tâm linh cho đến khi những phần tử quốc gia quá khích thời Meiji dấy lên phong trào “bài Phật khí Thích” Haibutsu kishaku (còn gọi là phế Phật hủy Thích), đập chùa phá tượng để đưa đến những kết quả nguy hại khôn lường.

Vai trò của Phật giáo trong nền văn hoá Nhật Bản

Hơn 1000 năm tồn tại, Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Nhật Bản (ở cả 2 dạng văn hóa vật thể và phi vật thể) và được kết tinh sâu sắc trong nhân cách con người.

có thể nói, mọi dân tộc trên thế giới đều đặn có các lễ hội cổ truyền và những lễ hội đó là nơi giao lưu giữa những giá trị văn hóa truyền thống, là cầu nối giữa quá khứ và hiện nay. Ở Nhật Bản lễ hội cũng mang những đặc trưng văn hóa dân tộc. có thể thấy thường xuyên lễ hội bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng đã được biến đổi cho phù hợp với đặc điểm lịch sử và văn hóa của người Nhật. Khi theo dõi từng lễ hội hàng năm, ta sẽ thấy văn hóa Nhật Bản thấm đậm màu sắc của đạo Shintô, cùng lúc ấy lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ đạo Phật. Ở Nhật Bản vẫn lưu truyền truyền thống hòa hợp tâm linh của con người đối với Thần, Phật và lòng cảm tạ những ưu đãi mà thiên nhiên ban tặng.

Trong những loại hình nghệ thuật như điêu khắc, kiến trúc, hội họa, ảnh hưởng của Phật giáo cũng rất sâu đậm. Dưới sự chi phối của thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo, văn hóa Nhật Bản đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ vào thời kì văn hóa Asuka (552 – 645), khi nghệ thuật được hoàng gia phát triển. Bằng chứng là hàng loạt ngôi chùa được xây dựng, trong đó có chùa Pháp Long (Horyuji) được xây dựng năm 607 tại tỉnh Nara, chánh điện và tháp 5 tầng được xem như kiến trúc bằng gỗ vào loại cổ nhất tổn tại cho đến ngày nay trên thế giới. Văn hóa cuối Nara (710-794) là thời kì hoàng kim của đạo Phật và nghệ thuật tạc tượng Phật ở Nhật Bản. Nghệ thuật này phản ánh một phong cách hiện thực lớn kết hợp với sự thanh thản hiếm có. Rất nhiều chùa chiền được xây dựng, mang bóng dáng tráng lệ của lục địa, trong đó có đại sảnh chùa Todai ở Nara, nơi đặt tượng Daibutsu (Đại bụt), công trình gỗ lớn nhất thế giới.

Trong các thời kỳ tiếp theo, Phật giáo cũng tạo được những ảnh hưởng đáng kể của mình, làm cho phong cách nghệ thuật Nhật Bản kết tinh được tính trang nghiêm và sự uy nghi với những đặc trưng được lý tưởng hóa, giữa sự duyên dáng đầy khí lực với sự thanh thản, giữa tính thực tế và sự tao nhã. Vào thời Kamakura (1192-1537), sự xâm nhập của Thiền tông vào Nhật Bản đã làm cho kiến trúc chùa chiền thường xuyên tầng phát triển, như Chùa Vàng (Kinkakuji) và Chùa Bạc (Ginkakuji) ở Kyoto. Phật giáo đã thực hiện một sự hỗn dung với Thần đạo không chỉ trong tâm thức mà còn cả trong nghệ thuật.

Không dừng lại ở đấy, tác động của Phật giáo còn lan tỏa vào trong lĩnh vực ẩm thực và nâng nó lên hàng một nghệ thuật với một phong cách rất đặc trưng. nói đến Nhật Bản không ai không nhớ đến một thứ trà trở thành “Trà đạo” cực kì nổi tiếng và mang màu sắc của Thiền (làm trong sạch tâm hổn bằng cách hòa mình với thiên nhiên, tinh thần thật sự của nghi thức sử dụng trà là điềm tĩnh, chất phác, phong nhã và tiết kiệm tối đa các động tác… thể hiện tính thẩm mĩ của cái dễ dàng khắc khổ và cái nghèo tao nhã), hoặc cội nguổn của nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản là nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỷ VI…

Ngay từ những ngày đầu các chùa viện Phật giáo đã đóng vai trò như là những cơ sở giáo dục. Cho đến năm Chiêu Hòa 42, Phật giáo Nhật Bản đã có 9 trường tiểu học, 51 trường trung học, 13 trường cao đẳng, 41 trường ĐH ngắn hạn và 24 trường đại học. Còn số liệu mới đây của Tịnh Độ tông (một trong hơn 10 tông phái lớn nhất ở Nhật Bản hiện nay) đăng trong cuốn danh bạ tự viện, số phát hành năm 1998 thì riêng Tịnh Độ tông đã có tới 6 trường ĐH, 4 trường ĐH ngắn hạn, 16 trường cao đẳng, 10 trung học, 2 tiểu học…

Chỉ tính riêng từ năm Minh Trị 21 (Meiji, 1888) đến năm Chiêu Hòa 42 (Showa, 1967), trong 79 năm Phật giáo Nhật Bản đã cho ra đời 276 tiến sĩ văn học, (nghiên cứu Phật giáo), chỉ tính riêng sau chiến tranh thế giới II đã có tới 179 tiến sĩ. Con số thạc sĩ và học sĩ có khả năng phải “chở bằng xe đong bằng hộc””. Về sự nghiệp xã hội, có 116 viện dưỡng lão Phật giáo, 13 viện cứu hộ, 26 viện chữa bệnh bảo hộ, 3 viện tàn phế, 16 sở thụ sản… Về phương diện con người, trong tác phẩm nổi tiếng thế giới của Lee O Young Người Nhật Bản với chí hướng thu nhỏ, đã viết: “Những người Nhật đã tạo ra những vườn đá đẹp nhất làm cho mọi người trên thế giới đổng cảm sâu sắc, đã phát sinh nền văn hóa lặng lẽ thanh khiết của phòng trà, dù rằng có sự giết chóc của xã hội võ sĩ đạo đã rửa lịch sử bằng máu, nhưng họ đã tạo ra nền văn hóa rất đẹp đủ để chuộc lại những cái đó… Những người Nhật đó chẳng lẽ chỉ có thể được ghi nhớ bằng những nhãn hiệu hàng hóa điện tử trong 4 tỉ người thôi hay sao?”. Cũng Lee O Young cho rằng: “Tuy cũng là đạo Phật, song, trong khi phái Thiên Thai của Trung Quốc coi trọng cái “lý” (có khả năng hiểu là trọng những điều trừu tượng, xa rời những mong muốn thực tế của đời sống) thì giáo phái Thiên Thai của Nhật Bản lại nhấn mạnh cái “sự” (có thể hiểu là trọng những nhu cầu hay hiệu quả thực tế). Trong cái thế giới không coi trọng cái “lý”, thế giới không có tư tưởng thì chỉ có “chủ nghĩa tiện nghi mới là thước đo của hành động”.

Trong điều kiện xã hội Hiện tại – một xã hội mà guổng máy công nghiệp cực kì hiện đại đang đẩy con người càng ngày càng dường như xa lạ với bản chất của mình (với tính cách là một sinh vật có cảm xúc) thì tổn tại của Phật giáo càng có những hợp lý nhất định. Nó giúp con người khi bước ra khỏi một quá trình sản xuất đơn điệu và căng thẳng sẽ tìm thấy một khoảng nhỏ cảm xúc được hổi phục để rổi ngày mai, ngày kia… lại tiếp tục dấn thân vào guổng máy đó. Có lẽ vì vậy, khác với người phương Tây khi công nghiệp và khoa học phát triển, niềm tin tôn giáo theo kiểu truyền thống dường như ít đậm đặc hơn thì ở người Nhật có lẽ biểu hiện lại khác: họ vẫn giữ được những tín ngưỡng cổ truyền, vẫn duy trì được thường xuyên lễ hội mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống. Trong từng con người Nhật Bản bên cạnh hành trang tri thức và kỹ năng lao động hiện đại, vẫn tồn tại những khác biệt rất căn bản khi họ đứng cạnh người Châu Âu hay Châu Mỹ. Để chỉ ra những tác động của Phật giáo đến con người và xã hội Nhật Bản hiện đại là công việc còn phải tiếp tục, song, có thể khẳng định được rằng: có được nước Nhật, có được con người Nhật Bản như ngày nay, Phật giáo đã có một phần can dự và nhờ điều đó mà mặc dù hiện đại, nước Nhật vẫn giữ được hình ảnh đẹp đẽ và hùng tráng của ngọn núi Fuji thuở xa xưa, cũng như giữ được sự cảm nhận tinh tế của con người trong đời sống tình cảm khi giao tiếp với thiên nhiên. Có lẽ vai trò của Phật giáo đối với con người và văn hóa của Nhật Bản là ở đó.

Để hiểu rõ hơn về lịch sử Phật giáo cũng như vai trò của tôn giáo này đối với văn hoá Nhật Bản, du khách có thể thực hiện chuyến hành hương đến “xứ sở mặt trời mọc” để khám phá các công trình, kiến trúc và những địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng nơi đây. Từ đó du khách sẽ cảm nhận được cuộc sống Phật giáo Nhật Bản và có cái nhìn sâu sắc hơn về tín ngưỡng này ở một cường quốc của Châu Á.

Nghệ thuật Bonsai Nhật Bản là một biểu tượng trong giới nghệ thuật mà bất cứ ai có hứng thú về làm đẹp những loại cây đều đặn phải trầm trồ trước vẻ đẹp tinh tế của nó. Nghệ thuật Bonsai không dễ dàng là cắt tỉa các cành cây, lá hoa mà đặc biệt hơn chính là sự khéo léo trong cách uốn nắn và làm đẹp cả thân và rễ cây.

“Bonsai” (Bồn Tài) là ngôn từ được dùng để chỉ nghệ thuật trồng cây cảnh trong chậu của “xứ sở Phù Tang”, được tạo hình theo dáng vẻ thanh nhã trong quy trình chăm sóc. “Bon” – “bồn” mang nghĩa là cái chậu để trồng cây trồng hoa và “sai” – “tài” có nghĩa là cây con, cây cảnh, nên Bonsai được hiểu là kỹ thuật trồng cây con trong chậu. Vốn chỉ dễ dàng là làm vườn trồng cây nhưng càng về sau thì được nâng tầm lên thành một bộ môn nghệ thuật Bonsai Nhật Bản nổi tiếng khắp thế giới. Người trồng cây cảnh Bonsai thường cắt tỉa bằng các dụng cụ dễ dàng như kéo tỉa, ống sắt, kẽm,… để tạo dáng cây trong suốt quy trình trồng.

Theo nhiều tư liệu, nguồn gốc ra đời của loại hình nghệ thuật Bonsai xuất phát từ Trung Quốc, phát hiện đầu tiên về cây Bonsai vào năm 1972 trong lăng mộ của hoàng tử Zhang Huai – đời nhà Đường (618-907 SCN). Sau đó du nhập vào Nhật Bản và Hàn Quốc, nghệ thuật Bonsai được phát triển rộng rãi nhất ở Nhật Bản, người dân đã phát hiện trên núi có những cây có kích thước bé, mọc hoang dã trên rừng, chúng có sức sống cực kỳ mãnh liệt dù trong khó khăn khắc nghiệt của thiên nhiên, họ đã đem những loại cây ấy về cho trồng trong chậu và cắt tỉa chúng. Dần dần, được người Nhật nâng tầm lên thành một bộ môn nghệ thuật thanh tao và đến nay thì được biết tới là đặc trưng của đất nước Nhật Bản. Chỉ cần nhắc đến Bonsai thì người ta sẽ nghĩ ngay tới hình ảnh những chậu cây được cắt tỉa đẹp mắt mang hình dáng uốn lượn dẻo dai tinh tế như chính người tạo ra nó. Khi xưa, nghệ thuật Bonsai là một bộ môn chỉ dành cho những người quyền quý, có thời gian và óc thẩm mỹ chăm bẵm lâu ngày mới tạo nên được một chậu cây có dáng vóc độc đáo.

Hình ảnh những chậu Bonsai đầu tiên có trong tranh Kasugaaongen – gengi của tác giả Takakane Takasshina vẽ vào năm 1309 ở đền Kasuga vào thời Kamakura (1192-1333). Đây được xem như là tuyệt tác tranh vẽ mở đầu, xuất hiện hình ảnh nghệ thuật Bonsai Nhật. Thêm vào đó, nghệ thuật tuồng cổ Nô của Nhật với tên gọi là “Hachi – no – ki” được hiểu là cây trong chậu cũng đã nâng tầm tổng giá trị cho nghệ thuật Bonsai Nhật Bản.

Nhật Bản được biết đến là nơi phát triển nghệ thuật Bonsai nhất, mặc khác theo lịch sử, sự thịnh hành về một thú vui cây cảnh Bonsai cũng chỉ bắt đầu nổi bật vào giai đoạn Heian (794-1185 SCN) và Kamakura (1185-1333 SCN) thông qua các nhà sư Phật giáo. Vào thời Thất Đinh – Muromachi (1334-1573) thì ảnh hưởng sắc thái Thiền nên Bonsai thời vị trí này cũng nhỏ hơn và thường được trưng bày trong nhà để thưởng thức. Theo lịch sử trải dài của bộ môn nghệ thuật Bonsai thì thời kỳ hoàng kim của Bonsai phải kể đến là thời Giang Hộ – Edo với triết lý Phật giáo hòa cùng bản ngã một cách tự nhiên. Bonsai thời vị trí này cũng mang nhiều kỹ xảo hơn, tinh tế hơn và kín đáo, trầm mặc hơn rất nhiều. Cho đến thời Minh Trị thiên hoàng (1868-1912) thì người Nhật bắt đầu dùng dây thép uốn nắn để có được thân cây uyển chuyển như nhu cầu. Cũng chính thời vị trí này nghệ thuật Bonsai Nhật Bản vươn tầm cao mới, nhận được sự ngưỡng vọng của các nước phương Tây và thế giới.

Đỉnh cao của nghệ thuật Bonsai Nhật Bản là vào năm 1914 một cuộc triển lãm cây cảnh Bonsai đầu tiên được tổ chức tại thủ đô Tokyo tạo nên tiền lệ mỗi năm đều đặn tổ chức kể từ năm 1934. Càng về sau, nghệ thuật Bonsai Nhật Bản càng được nâng cao và tạo nên những bước biến chuyển khác biệt hơn hàng ngày.

không những nhận được sự công nhận của cả thế giới mà nghệ thuật Bonsai Nhật Bản còn quy tụ được thường xuyên nghệ nhân quyết tâm theo con đường này. Với họ, Bonsai mang một hơi thở riêng biệt mà chỉ có những người đam mê và yêu thích mới cảm nhận hết được tinh túy của nó.

Những chậu cây Bonsai nhỏ xinh được kết hợp những yếu tố mang sắc thái Thiền vào việc tạo hình. Mỗi tác phẩm Bonsai đều đặn mang một ý nghĩa và ẩn chứa một câu chuyện rất thú vị. Điểm đặc biệt ở đây chính là việc những chậu cây Bonsai luôn mang một vẻ dễ dàng nhưng lại luôn gợi sự hình dung, trí tưởng tượng cho người chiêm ngưỡng chúng. Người Nhật vốn rất yêu thiên nhiên. Vì vậy mọi thứ trong cuộc sống của họ, những suy nghĩ riêng hay những đề tài tôn giáo đều đặn trở thành nguồn khoái cảm để họ tạo nên những chậu Bonsai độc đáo.

Nghệ thuật Bonsai Nhật Bản mang dáng vẻ của tinh thần nước Nhật với triết lý, tôn giáo, thẩm mỹ hòa hợp và bổ trợ cho nhéu. Ngay cả tín ngưỡng Thần Đạo – Shinto của Nhật cũng đề cao sự hòa hợp, gần gũi với thiên nhiên. Và trong triết lý thiền nơi mà bất toàn (wabi – sabi), lại chứa đựng tính thiêng (kami), hợp thành khoái cảm cho bonsai phát triển, cái bất đối xứng, trái quy luật của cây lại bên ngoài dư ẩn bên trong sự linh thiêng, thần tính… chính vì vậy, muốn hiểu được nghệ thuật Bonsai thì phải học và hiểu hết từng tổng giá trị cốt lõi của nó mới mong hòa nhập được với loại hình nghệ thuật cao cấp này.

Theo các nghệ nhân tạo dáng cho cây cảnh Bonsai thì thường uốn theo 5 thế cơ bản rồi về sau mới tạo nên nhiều thế ấn tượng khác mà đến nay chúng ta có thể thưởng thức sự phong phú của nghệ thuật Bonsai Nhật. 5 thế cơ bản bao gồm: Chokkan (thẳng đứng), Moyogi (thẳng đứng phóng khoáng), Shakan (nghiêng), Kengai (thác đổ) và Han Kengai (bán thác đổ). Mỗi thế đứng của cây sẽ mang một ý nghĩa khác nhau và cách tạo thế cũng khác nhau, tùy vào ý đồ thể hiện mà người nghệ nhân sẽ chọn thế hợp nhất. Càng về sau, óc sáng tạo đỉnh cao của các nghệ nhân cho ra đời thêm nhiều thế độc đáo và khó hơn như: Sekijoju (rễ phủ trên đá), Ishizuke (rễ trong đá), Hokidachi (chổi), Windswept (bạt phong), Ikadabuki (song thụ và tam thụ), Clump style (thế lùm), Bunjin-gi (văn nhân), Weeping style (thế cành rủ), Dead wood (thế gỗ mục), Yose Uye (nhóm cây hay rừng),…

Ngoại hình của những chậu cây Bonsai Nhật thì phải xét đến 4 yếu tố quan trọng nhất là: bộ gốc rễ, thân cây, cành lá, hoa của cây cảnh. Rễ cây: theo quan niệm người Nhật thì đây là cội nguồn của sự vững chãi. Một cây Bonsai đẹp cần phải có một bộ rễ to, khỏe và chắc chắn. Bộ rễ cần phải nổi bật như kiểu nhô cao khỏi mặt đất, bám vào một phiến đá… Thân cây: Đây là bộ phận trụ cột, chống đỡ cho cả cây, thân cây càng già thì càng có tổng giá trị. Các nghệ nhân có khả năng cắt nhiều vết trên thân cây để tạo sự già cỗi cho thân cây. Cành lá cây: Một bộ phận không thể thiếu trong Bonsai. Lá cây, tán cây không được phép che hết phần thân cây. Hoa hoặc quả: Đối với những loại cây Bonsai ít lá mà thường có hoa với quả thì việc màu sắc của hoa hay quả là yếu tố quyết liệt. Những cây có hoa và quả màu đỏ thường được thường xuyên người chơi Bonsai yêu thích.

Vào thời kỳ sơ khai thì những loại cây quý và tuổi thọ cao thường được chọn như tùng, si, bách, đa… Những nghệ nhân tuổi tác lên cao và có tuổi đời gắn bó với Bonsai lâu năm hơn thì những chậu Bonsai thực sự đẹp phải mang nét cổ kính, già, nét hoang sơ kết hợp dịu dàng tạo nên sự rung động ngay khi ngắm nhìn. Tuy vậy nhưng càng về thời kỳ phát triển của nghệ thuật Bonsai Nhật thì những loại cây khác cũng được chọn làm chứ không nhất thiết là cây quý thì mới được. Theo các nghệ nhân này thì kỹ thuật và tâm huyết sẽ giúp họ tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, có một không hai.

Những chậu Bonsai cứ thế vươn mình hưởng thụ khí trời qua bốn mùa, đứng hiên ngang như chưa từng chịu đau đớn của sự uốn nắn bao năm tháng khiến người xem phải tĩnh tâm ngắm nhìn. Chẳng trách sao người Nhật lại đam mê bộ môn nghệ thuật tinh thần này như vậy, không có một thế lực vật chất nào có khả năng đánh đổi được những giá trị tinh tế mà Bonsai mang tới.

Việc trồng và chăm sóc những chậu cây Bonsai đã thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên, gần gũi với cỏ cây hoa lá và góp phần thể hiện được tính kiên trì, chịu khó của người Nhật. Để trồng và chăm sóc tương đương tạo dáng cho một chậu cây Bonsai hay thậm chí là một vườn Bonsai không phải là việc một sớm một chiều, mà điều đó là cả một quy trình dài lâu.

Ngày nay, nghệ thuật Bonsai ở “xứ Phù Tang” lại được nâng lên một tầm cao mới bởi sự ra đời một dự án gọi là “Air Bonsai” (cây bonsai bay lơ lửng). Air Bonsai là một là dự án được làm hoàn toàn từ Nhật Bản với sự sáng tạo và tài tình của những kỹ sư Nhật Bản. Đây có khả năng xem là điều không tưởng trước đây và người Nhật đã biến những điều không thể thành có khả năng. “Bonsai lơ lửng” là một gốc cây Bonsai mini bay lơ lửng trên không nhờ vào cơ chế từ tính, kết hợp với phần đế bên dưới.

Air Bonsai vô cùng độc đáo nhưng vẫn giữ được cho mình vẻ đẹp và duyên dáng vốn có. Để cây Bonsai có thể lơ lửng được phải cần đến nguồn điện hỗ trợ và phần đế có khe cắm điện ở phía dưới đáy, khi cắm vào nguồn điện thì sẽ có đèn phát sáng báo hiệu. Về cơ bản, Air Bonsai sẽ gồm hai phần: phần đế và phần gốc cây bonsai mini phía trên. Chúng ta hãy đi từ dưới lên, là phần đế trước: đây được gọi là phần năng lượng, hay là bộ não của toàn hệ thống bởi nó sẽ phát ra lực từ tính, nó sẽ có cơ chế xoay, tức là giúp cho phần cây bonsai phía trên vừa bay vừa xoay tròn đều. Đề cập đến chất liệu phần đế có mặt trên cùng làm bằng gương, phần thân làm từ gốm sứ Nhật Bản dòng Imari truyền thống.

Được biết, phần đế sẽ có thường xuyên phiên bản, bao gồm các phiên bản làm thủ công bởi các nghệ nhân ở Nhật Bản, tất nhiên là giá cũng sẽ rất khác biệt. Phần gốc cây Bonsai: cũng có từ tính bên trong để có khả năng kết hợp với phần đế tạo ra lực hút ngược lại, cân bằng lực sẽ giúp nó bay lơ lửng trên không. Phần gốc cây Bonsai mini này cũng sẽ có hai loại riêng biệt là: Moss và Lava. Trong đó Moss sẽ có dạng tròn, bên trong là bọt biển để giúp việc trông cây dễ hơn. Phần Lava được làm từ đá núi lửa Sakurajima ở phía nam của Kyushu, phần đá này được làm lại sao cho nó có trọng lượng nhẹ, phù hợp cho cả hệ thống và trồng cây được.

có khả năng nói, tổng giá trị của nghệ thuật Bonsai ở Nhật Bản chưa bao giờ phai nhạt và luôn chuyển mình qua thời gian. Nếu yêu thiên nhiên mà chưa biết đến Bonsai thì thực sự là một thiếu sót lớn đối với người nghệ nhân tinh thần.

Nét đẹp trong loại hình nghệ thuật Bonsai của Nhật Bản rất khó thể có khả năng miêu tả hết được. Chỉ có khả năng thực hiện ngay một chuyến du lịch Nhật Bản cùng Chúng Tôi, du khách mới có khả năng khám phá được hết những “nét đẹp” văn hóa này.

Nhật Bản có nền văn hóa tồn tại qua hàng ngàn năm, thấm nhuần trong dòng máu của những người dân nơi đây. một vài nét văn hóa đã trở thành truyền thống và tập tính của người Nhật trong đời sống, học tập và làm việc của họ. Một trong số đó là nghệ thuật thư pháp.

Shodō (書道 – “thư đạo”), hay nói một cách dễ dàng là nghệ thuật viết chữ đẹp, nghệ thuật thư pháp là một trong những cách thức nghệ thuật nổi tiếng ở Nhật Bản, được rất thường xuyên người Nhật tham gia và theo đuổi, vì thế mà đây chính là một trong số những bộ môn nghệ thuật được đánh giá cao nhất ở “xứ sở hoa anh đào”.

Loại hình nghệ thuật này bao hàm trong nó cảm quan mang tính tâm linh và tâm thần. Hiểu một cách dễ dàng thì thư pháp là nghệ thuật viết chữ đẹp. Các tác gia lớn tạo ra những tác phẩm nghệ thuật từ những cây cọ trúc và mực trên nền giấy Tuyên, truyền tại cái đẹp và sự hài hòa. Sự kết hợp giữa tính đơn giản và sự duyên dáng trong các tác phẩm thư pháp là một trong các nguyên tắc chính của tiêu chuẩn thẩm mĩ Nhật Bản.

Nghệ thuật thư pháp Nhật Bản có nguồn gốc từ Trung Quốc và được du nhập vào Nhật từ thời kỳ Nara (710-794) cùng với cách chế tạo mực, giấy và bút lông. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng từ nghệ thuật thư pháp của Trung Hoa nhưng người Nhật cũng đã có được những cách cách tân riêng để tạo ra được một trường phái nghệ thuật thư pháp riêng của mình, trong đó tiêu biểu nhất cho trường phái này đó là hệ thống chữ “Kana”.

Trong thư pháp Nhật Bản, sự khởi đầu, hướng đi bút, cách thức, sự kết thúc của các đường, sự cân bằng giữa các nhân tố là vô cùng quan trọng. Chữ tượng hình, về bản chất, là sự hài hòa, cân đối và thăng bằng. Có tới 2.136 ký tự kanji trong tiếng Nhật Bản mà trẻ em Nhật Bản phải học từ bé. Những ký tự tượng hình này được các nghệ nhân thư pháp truyền tải lên mặt giấy trắng vô cùng tài tình, tạo nên những bức thư pháp mang đậm ý nghĩa biểu trưng, thể hiện khí chất và tâm hồn của người nghệ sĩ.

Thư pháp Nhật Bản có 3 phong cách viết chính gồm: Kaisho, có nghĩa là “viết thư pháp kiểu vuông”, là kiểu viết nhập môn của thư pháp, người mới bắt đầu học đều phải ngày ngày luyện viết kiểu chữ này. Kiểu chữ này rất tốt trong việc tạo nền tảng cho học viên dùng bút lông để viết chữ thư pháp. Trong phong cách Kaisho, mỗi nét chữ được viết ra đều đặn thể hiện được sự cẩn thận và rõ ràng, tạo được kiểu thư pháp theo lối chữ in mà chúng ta có khả năng nhìn thấy trên các tờ báo. Gyousho có nghĩa là là “viết thư pháp kiểu nhanh” muốn đề cập đến phong cách viết nửa chữ thảo trong thư pháp Nhật Bản, cách viết mà hầu hết mọi người hay dùng thường xuyên trong ghi chú. Không giống với cách viết chữ thảo trong tiếng Hoa, trong phong cách Gyousho, những nét chữ được viết rời rạc theo phong cách Kaisho được kết hợp với nhéu, tạo thành phong cách viết trôi chảy và lưu loát hơn. Chữ viết theo kiểu này thường phổ thông và dễ đọc đối với đại đa số tầng lớp tri thức ở Nhật Bản. Sousho là “kiểu thư pháp thường xuyên nét”, nói đến phong cách viết chữ thảo trôi chảy trong thư pháp Nhật Bản. Với cách viết này, người đọc rất khó đọc vì các nhà thư pháp hiếm khi cho phép bút lông của mình rời khỏi giấy, để có được nét chữ thanh nhã và nhanh hơn. Chỉ duy nhất những người nào học viết kiểu thư pháp này mới có thể dễ dàng đọc được nguyên bản thể thư của nó.

Trong các tác phẩm thư pháp Nhật Bản, tính nhân văn được biểu hiện một cách thuần túy, nguyên vẹn và cách sống, cách suy nghĩ của tác giả cũng được phản ánh rõ nét trong từng tác phẩm thư pháp. Để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp cả về cách thể hiện và tinh thần của một tác phẩm thư pháp, đòi hỏi cả người viết và người xem phải có sự đồng điệu về tâm hồn, đồng nhất về tri thức và trình độ. Theo phân loại của Hội Thư pháp Mainichi của Nhật Bản, thư pháp truyền thống đến thư pháp hiện đại của Nhật Bản có thể được xếp theo 7 trường phái: Thư pháp chữ Hán được tạo nên dựa vào thơ, văn xuôi cổ điển viết bằng chữ Hán, dựa vào cảm nhận nghệ thuật và phương pháp học thư pháp của từng người, thể hiện tính hiện đại hoà quyện trong tính truyền thống. Thư pháp chữ Kana được tạo ra để viết những từ ngữ đẹp của Nhật Bản thông qua việc cải biên, phát triển những bài hát Waka và thơ Haiku. Thư pháp thơ văn cận đại là những tác phẩm lấy văn và thơ hiện đại làm đề tài, điều hoà giữa chữ Hán và chữ Kana tạo ra một thư pháp mới. Thư pháp viết chữ lớn là những tác phẩm chữ lớn mà số lượng chỉ từ 1 đến 2 chữ. Một thế giới thư pháp mới được tạo ra từ việc định hướng tạo hình, tôi luyện đường nét và sáng tạo về màu đen. Thư pháp ZenEi chịu tác động của hai trường phái hội họa trừu trượng phương Tây và triết học phương Đông. Không bị giới hạn bởi việc lấy chữ làm nguyên liệu chính, người viết có khả năng tự do thể hiện tâm hồn và tình cảm. Thư pháp chữ khắc gỗ, chữ viết được khắc lên bản gỗ mang tính lập thể và còn có thể được tô bằng thường xuyên màu sắc. Thư pháp chữ in bằng khuôn khắc đá – Tenkoku, bộ môn này được cho là tinh hoa của phương Đông và giới thư pháp. Chữ in bằng khuôn hình vuông 3 phân. Người ta khắc trên đá những bản thư pháp và chữ viết thời cổ đại của Trung Quốc sau đó in trên giấy trắng, tạo nên sự tương phản rất đẹp giữa mực (đỏ) và giấy.

Để tạo nên một thư pháp hoàn chỉnh, người Nhật sử dụng 7 dụng cụ cơ bản, bao gồm: Giấy Nhật (Washi): được làm từ các sợi bên trong vỏ cây gampi, cây bụi misumata hoặc cây dâu giấy (kozo). Washi thường được làm thủ công, ngay cả trong thời hiện đại, với những kỹ thuật được truyền lại qua hơn 1.000 năm. Bút lông/Cọ (Fudé): dùng để viết, với nhiều hình dạng và kích cỡ, thường được làm từ lông động vật. thường nhật nhất là lông dê, cừu, bờm ngựa,… Cán bút được làm từ gỗ, tre, ngày nay có khả năng làm từ nhựa hay các vật liệu khác. Thỏi mực (Sumi): Thỏi mực càng lâu năm thì càng tốt. Những thỏi mức tốt nhất là những thỏi khoàng 50-100 tuổi. Nghiên mực (Suzuri): để mài mực (mài thỏi mực với nước). Lót giấy (Shitajiki): sử dụng để đặt dưới giấy để tránh mực bị thấm ra ngoài. Chặn giấy (Bunchin): cố định giấy trên mặt phẳng. Ấn (chiện): nghệ thuật khắc ấn được gọi là Tenkoku. Các học viên được khuyến khích tự khắc ấn riêng. Vị trí của dấu chiện này tùy thuộc vào quan niệm thẩm mĩ.

Trong quá trình viết thư pháp, đầu tiên cần phải mài mực cùng với ngước trong nghiên cho đến khi mực tan ra thành dạng lỏng thì có khả năng sử dụng được. Thao tác cầm bút, cần phải sử dụng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa của tay phải, cầm ở giữa thân bút và vuông góc với mặt giấy. Khi viết cần phải thẳng lưng với tay trái đặt nhẹ nhàng trên mặt giấy để tạo ra được những nét chữ đẹp và sạch sẽ.

Ở Nhật Bản, thư pháp được coi như là một bộ môn nghệ thuật hiện đại, đang được tiến hành theo tinh thần cách tân. Sức sống của thư pháp trong cuộc sống hiện đại Nhật Bản biểu hiện ở lịch triển lãm định kỳ vào đầu tháng 7 hằng năm tại Tokyo và 9 thành phố khác ở Nhật Bản cũng như tại gần 20 quốc gia trên thế giới. Ngoài ngày mùng 2 tháng 1 hàng năm là ngày hội viết chữ của cả nước, thư pháp còn được tổ chức vào những dịp hiếu, hỉ, mừng tân gia hay mừng nhập môn, nhập trường… Hiện tại, thư pháp đã được đưa vào chương trình giáo dục phổ cập cho học sinh phổ thông của Nhật Bản.

Nét đẹp trong loại hình nghệ thuật thư pháp của Nhật Bản rất khó thể có khả năng miêu tả hết được. Chỉ có khả năng thực hiện ngay một chuyến du lịch Nhật Bản cùng Chúng Tôi, du khách mới có thể khám phá được hết những “nét đẹp” văn hóa này.

Người Nhật đánh giá người khác không chỉ ở cách nói chuyện mà còn quan sát cả cử chỉ, thái độ mà người đó thể hiện ra ngoài. Sở dĩ người Nhật có những thói quen tuyệt vời như vậy bởi những đứa trẻ ở Nhật được dạy dỗ như vậy ngay từ khi chúng bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh. Và văn hóa đi thang máy của người Nhật cũng là một ví dụ điển hình.

Văn hóa đi thang máy của người Nhật không dễ dàng chỉ là bước ra bước vào, chọn tầng để bấm, ung dung tự tại muốn làm gì thì làm cho đến khi cửa thang mở ra và tới đúng tầng cần tới. Người Nhật coi việc đi thang máy là một nét văn hóa, tương đương là một thước đo độ văn minh ứng xử của mỗi người mỗi người.

Trước hết, nét đẹp văn hoá này được thể hiện qua hình ảnh của những tiếp viên thang máy. Tại Nhật Bản, ở những nhà hàng bách hóa, trung tâm mua sắm luôn các cô gái tiếp viên thang máy xin phéph đẹp thân thiện trong bộ đồng phục chỉn chu như tiếp viên hàng không, cùng với những nghi lễ, lễ phép lời chào thân thiện tới hành khách khi dùng thang máy. Ở mỗi tầng mỗi khu trọng điểm sẽ được phân công một cô gái xin phéph đẹp thân thiện cấp bậc là “tiếp viên thang máy” với trọng trách bên cạnh thể hiện sự mến khách, ngoài ra tiếp viên thang máy còn có nhiệm vụ cao cả trong việc hướng dẫn hành khách khi dùng thang máy đúng cách giúp đỡ những người tàn tật, khiếm thị sử dụng thang một cách dễ dàng giúp họ tự tin hơn khi sử dụng thang không còn mặc cảm hay e ngại khi phải làm phiền tới người lạ. Dường như nững nét văn hóa nơi công cộng ở Nhật Bản như là một chuỗi mắt xích với nhau, những nét văn hóa đó được hình thành từ trong suy nghĩ của mỗi cá nhân Vì vậy mỗi hành động từ trẻ nhỏ cho tới người già đều đặn nói lên nét văn hóa cách ứng xử của người dân nơi đây.

Người Nhật được biết đến là dân tộc có lối sống nguyên tắc, họ khá nghiêm khắc với bản thân, con cháu hoặc những người xung quanh nhất là nơi công cộng. nhiều người thường đùa nhau văn hóa ứng xử của người Nhật được chạy thẳng như một đường ray, nếu chỉ cần đi chệch hướng một chút có khả năng họ đã bị tách ra khỏi đường ray đó, tạo nên sự đánh giá và thái độ của người bên cạnh với bạn ngay. Chính cách ứng xử đó tạo ra cách sử dụng thang máy rất chuyên nghiệp, ngay từ việc đứng đợi thang máy đã thể hiện rõ ý thức của những con người nơi đây khi luôn được xếp hàng thẳng tắp. Khi đứng đợi thang máy, một hành động vô ý thức đó là dàn hàng đứng chắn trước cửa đợi thang máy. Hành động đúng là đứng tránh ra hai bên cửa thang để người bên trong bước ra trước thì mới vào được. Đứng dịch ra vừa tiện cho việc bước vào thang máy, vừa không gây ảnh hưởng đến tâm trạng của người trong thang bước ra.

Ở những nơi làm việc như cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, các nhân viên luôn phải nắm rõ quy tắc ứng xử trong thang máy để không làm mất lòng sếp. cụ thể là đi cùng thang máy với cấp trên, người có vai trò thấp nhất (nhân viên) phải ấn nút thang máy và giữ cho cửa thang máy mở cho đến khi cấp trên hoặc khách hàng bước vào an toàn. Khi giữ cửa, phải đứng tư thế nghiêm trang, khuôn mặt nên mỉm cười, đầu cúi chào và nói “xin phép mời!” khi khách bước vào. Sau khi cấp trên hoặc khách hàng đã bước vào thang máy, nhân viên phải nhanh chóng bước vào và đứng ở vị trí sát bên bảng điều khiển để chọn số tầng cho từng người. Khi thang máy đến nơi, người có vai trò thấp nhất phải tiếp tục giữ cửa thang máy cho đến khi mọi người bước ra ngoài.

Trong nguyên tắc của người Nhật, bất kể làm việc gì họ cũng đều đặn có phân biệt chức vụ rõ ràng, ngay cả vị trí đứng trong thang máy cũng cho thấy rằng được ai là người có vai trò quan trọng nhất trong Doanh nghiệp. Theo đó, người có vai trò quan trọng nhất sẽ đứng phía trong bên phải của thang máy (số 1), kế bên là người có vai trò quan trọng thứ 2 (số)… và sau đó là những người có vai trò nhân viên (số 3, 4). Trong số 3 và 4, có khả năng hiểu số 4 là hậu bối của số 3 hoặc vai trò trong Doanh nghiệp Nhật thấp hơn số 3.

Khi vào trong thang mỗi người luôn tìm vị trí đứng thích hợp để nhường chỗ cho những người vào sau, họ luôn giữ lịch sự khi ở trong thang máy, không gây ồn ào, không cười đùa, không nói chuyện to, không gây ảnh hưởng đến người xung quanh, tất cả mọi người đều thể hiện như nhau không kể người già hay trẻ nhỏ. Cho đến khi bước ra khỏi thang máy cũng có thứ tự, không chen lấn, xô đẩy, họ luôn nhường nhéu, đây chính là điểm khác biệt giữa cách sử dụng thang máy của người Nhật và người dân ở các nước khác.

Khi đến với thang cuốn ở đó là những dòng người nối đuôi nhau không có chuyện chen lấn xô đẩy, hàng hóa cồng kềnh… Nếu được dịp tới Nhật Bản, hãy ghé chân tới các trung tâm thương mại và quan sát cách người Nhật đi thang cuốn, du khách sẽ phải thốt lên trong đầu: “Chuyện gì thế nhỉ? Tại sao người ta lại xếp thành một hàng dài và đứng gọn về một phía? Phải chăng ở tầng trên đang có sự kiện gì?”. Rõ ràng chỗ trống vẫn còn rất thường xuyên, tại sao không ai vượt lên mà vẫn cần mẫn đứng đó xếp hàng? Thực tế, đây là khung cảnh hết sức bình thường và phổ biến tại bất cứ siêu thị hoặc trung tâm thương mại nào tại Nhật Bản. Dù có rất nhiều thang cuốn, dù chẳng có sự kiện nào cần phải xếp hàng thì người dân vẫn luôn đứng sang một bên thang và để trống bên còn lại. Việc này diễn ra một cách nhịp nhàng, đều đặn, trật tự và không hề có ngoại lệ nào, như thể dân Nhật bị “thôi miên” vậy.

Dường như ở cái “xứ sở hoa anh đào” này, tĩnh lặng đã trở thành một quy chuẩn, cũng là cái không khí len lỏi khắp đất nước có nền văn hóa được coi là tinh hoa nhân loại này. Khu mua sắm, khu tàu điện, thư viện, trường học, tất cả đều đặn phảng một nét gì đó có phần hơi lơ đãng, cứ chầm chậm, hiền hòa, chẳng xô bồ, không một chút sỗ sàng. Đến Nhật Bản, đừng vội! Văn hóa dùng thang máy của người Nhật thực ra chẳng có gì quá to tát, chỉ là một chút ý thức mà thôi./.



Bài viết liên quan